Zero Kara Hajimeru Mahou No Sho
Kakeru KobashiriYoshinori Shizuma
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Chương 9: Phán quan

Độ dài 8,771 từ - Lần cập nhật cuối: 2022-04-28 05:15:23

    Lôi thánh nữ ra khỏi Thánh Đô – nói thì dễ hơn làm. Nếu có người hỏi chúng tôi định làm như thế nào, tôi không thể trả lời ngay được, Cal cũng vậy. Chúng tôi chỉ vừa có thêm một đồng minh đáng tin cậy. Và chúng tôi chỉ mới bắt đầu vào giai đoạn suy nghĩ chiến lược.

    Một băng cướp tập hợp chủ yếu là người bệnh, một phù thuỷ, hai Đoạ thú và một linh mục đang bất tỉnh có thể làm gì? Lựa chọn lúc này có mỗi vắt óc mà suy nghĩ.

    Không may là chúng tôi đã hoàn toàn kiệt sức rồi. Sau khi phải chịu đạn pháo ở Thánh Đô, chúng tôi tiến đến thẳng Pháo Đài Hoa Sen mà không nghỉ ngơi chút nào. Chúng tôi vừa mệt vừa đói. Nên tôi quyết định mượn nhà bếp của pháo đài để làm bữa tối.

    Zero cầm muỗng gỗ khuấy nồi và cắn một miếng cà rốt nhừ.

    “Không tệ.” Zero gật đầu khen ngợi.

    Tôi giật cái muỗng khỏi tay cô.

    “Anh đang làm gì thế?!” Cô nói. “Trả đây! Đó là muỗng của ta!”

    “Bản thân ăn vụng thì không nên phàn nàn đâu, tiểu thư. Bất cứ ai phá rồi việc nấu nướng đều bị đuổi khỏi nhà bếp!”

    Tôi tóm lấy cổ áo của Zero và kéo cô ra xa nồi. Rồi từ từ kéo cô đi và quẳng cô ra khỏi nhà bếp.

    “Ch-chờ đã, Dong binh! Có điểm gì đấy kì lạ về thức ăn ngày hôm nay. Nó nhìn không giống như thức ăn ta được ăn trước đây. Dường như nó ngon hơn thường lệ. Nên ta không thể không tò mò được…”

    “Tất cả đều do dụng cụ, nguyên liệu và thời điểm. Cô không thể nếm thức ăn cho đến khi nó sẵn sàng.” Tôi đóng cửa phòng bếp ngay trước mắt Zero.

    “Ta – Ta muốn ăn…chỉ một chút thôi…một đĩa nhỏ cũng được…” cô cầu xin với giọng giả tạo, khuôn mặt đẫm nước mắt.

    Cal nhìn Zero với vẻ cảm thông. “T-tôi nghĩ cho cô ấy một đĩa cũng được mà,” anh nói. Hiện tại Cal đang hỗ trợ tôi nấu ăn.

    “Không,” tôi thẳng thừng từ chối. “Anh hạ thấp cảnh giác và cô ta sẽ húp trọn cả nồi đấy.”

    “Nhưng nhìn cô ấy nhỏ như vậy mà. Chắc hẳn cô không thể ăn nhiều như thế.”

    “Đừng để bị vẻ ngoài của cô ta đánh lừa. Nếu anh bất cẩn thì phần ăn của mấy người kia sẽ biến mất ngay tức khắc.”

    Hai nồi súp lớn đang sôi lên trước mặt tôi. Một nồi là cho chúng tôi còn nồi kia cho những người ở pháo đài.

    Lúc đầu, tôi nghĩ đến việc làm một bữa ăn đơn giản cho chúng tôi, nhưng lạ thay có một lượng lớn nguyên liệu trong kho lương thực của họ. Và ngoài ra ở pháo đài không có đầu bếp nào. Nên sau khi nghe họ nói rằng họ chưa được ăn bữa nào tử tế gần đây, với tư cách là con trai của chủ quán rượu, tôi không thể cứ để yên như vậy được.

    Làm cách nào một tập hợp những người nghèo lại trữ được lượng lớn thức ăn như vậy là một bí ẩn với tôi. Khi nghe Cal nói anh ta có được chúng bằng các mối quan hệ, tôi chẳng buồn đào sâu vấn đề hơn.

    Bỗng dưng tôi nghĩ đến một câu hỏi khác. “Tôi biết quá trễ để hỏi cái này, nhưng liệu người ở đây có ăn thức ăn được Đoạ thú chuẩn bị không? Thường thì người ta sẽ thấy chán ghét và ghê tởm nó.”

    “Ừ, quá trễ cho việc đó rồi. Thủ lĩnh của họ là một Đoạ thú. Chưa kể, những người ở đây chả dư dả sự lo lắng để quan tâm ai làm thức ăn đâu. Càng thế nữa sau khi họ thấy được món ăn nhìn hấp dẫn này.”

    “Quả thật. Đối với người đói thì không cảnh nào hấp dẫn hơn đĩa thức ăn ngon lành. Được rồi, đã xong.”

    Tôi bưng nồi thịt nai hầm cùng rau củ ra khỏi bếp lửa và những người phụ nữ chờ đợi thức ăn mang nó đến đại sảnh. Một trong những đứa trẻ đến giúp dừng chân lại và nhìn vào Cal.

    “Ta có thể cho Talba ăn cùng không?” cậu hỏi.

    “Tất nhiên là được rồi,” Cal trả lời. “Tại sao nhóc lại hỏi thế?”

    “Vì chú ấy khóc ở trong phòng mình từ nãy đến giờ. Chú nói mình đã làm một việc kinh khủng và quá xấu hổ để nhìn mặt anh. Chú ấy đang bị trừng phạt mà, phải không?”

    Cal không nhịn được mà cười. Có vẻ như tên say xỉn kia cũng tỉnh rồi và đang hối hận hành động của mình.

    “Nếu anh ta hối lỗi rồi, thì đâu còn vấn đề nữa,” Cal nói. “Tôi cũng có lỗi vì không nói chuyện với anh ta trước.”

    “Vậy em sẽ đi nói với mọi người!” Cậu nhóc vui vẻ rời phòng bếp.

    Ngay sau đó, tiếng hoan hô phát ra từ đại sảnh và truyền đến thẳng phòng bếp.

    “Còn đây là phần của chúng ta,” tôi nói. “Heo xông khói với hai loại sốt. Với thịt gà thì chỉ rắc muối lên là đủ ngon rồi. Cá bọc trong lá cây chắc cũng nướng xong rồi. Rồi đặt bánh mì bên cạnh pho mát. Món còn lại là súp khoai tây, và thế là có bữa ăn hoàn hảo.”

    “Tôi có một thắc mắc,” Cal nói. “Anh học cách nấu ăn như thế này từ chỗ nào vậy? Tôi khá chắc chắn chẳng có con người nào sẽ dạy cho Đoạ thú.”

    “Tôi là con trai của chủ quán rượu. Tôi phụ trong bếp đến năm mười ba tuổi.”

    “Mười ba?! Chà, ngạc nhiên thật. Anh sống một cuộc đời yên bình lâu đến vậy ư?”

    “Ừ, cho đến khi vài tên cướp nhắm đến đầu của tôi. Tôi được đối xử như một con người bình thường đến tuổi mười ba, nhưng ngay sau khi tôi rời làng, người ta đối xử với tôi như một con quái vật. Người dân trong làng không sợ hãi tôi, nên lúc đầu tôi đã có khoảng thời gian khó khăn để duy trì khoảng cách phù hợp với người khác.”

    Tôi đã không hiểu tại sao mọi người lại la hét và bỏ chạy khi tôi bắt chuyện với họ. Họ sẽ khóc lóc cầu cứu ngay cả khi tôi không làm và cũng không định làm gì.

    Nhưng sau một thời gian, tôi nhận ra bắt chuyện với họ là sai lầm. Cái tôi cần không phải là xác định khoảng cách mà là thật sự tránh xa con người. Cách họ đối xử với tôi chẳng có gì là sai cả. Hạnh phúc mười ba năm đầu tiên đó trong đời tôi mới là dị thường.

    “Đây là phần ăn cuối cùng,” Tôi nói trong khi bưng cái nồi nhỏ khỏi bếp lửa.

    Bên trong là nấm Arius được nấu nhừ và đậu Cicero được trộn lại với nhau, sôi ùng ục đến kì lạ.

    “Thế cái thức ăn cho lợn kia để làm gì vậy?” Cal hỏi. “Anh không nấu nhiều lắm.”

    “Đây là phần ăn đặc biệt được chứa đầy sự phẫn nộ và khó chịu của tôi. Cái này cho ai ăn tôi chắc anh cũng đoán được. Anh có thể gọi Tito tới được không?”

                                                        *****

    “Ôi, cảm ơn trời. Anh cũng chuẩn bị bữa ăn cho người linh mục!” Tito nói trong khi nhìn vào thức ăn tôi làm, nở nụ cười vui vẻ.

    “Tiện tay làm thôi,” tôi nói. “Nó gần như là thức ăn thừa, thật đấy.”

    “Bác sĩ, tình trạng của linh mục sao rồi?” Cal hỏi.

    “Ổn rồi,” Tito nhìn vào nồi trong khi trả lời. “Anh ta lúc này đang ngủ say. Nhịp thở đã ổn định, và không phát sốt nữa. Trái ngược với vẻ ngoài của mình, anh ta cứng cỏi phết.”

    “Tốt rồi. Tôi mong chúng ta có thể có một cuộc đối thoại hoà bình khi anh ta tỉnh dậy, và có thể anh ta sẽ đồng ý giúp chúng ta nữa. Đúng không, Dong binh?”

    “À, ừ… chắc vậy.”

    “Có chuyện gì sao? Giọng anh không dứt khoát lắm.”

    “Đối phương là một linh mục. Chuyện này có hơi kì lạ khi đến từ người lợi dụng gã để có được sự hợp tác của anh, nhưng ngay cả khi chúng ta có cùng mục tiêu, tôi nghi ngờ việc gã muốn hợp lực với Đoạ thú.”

    “Đừng lo về chuyện đó. Tôi cũng không mong chờ quá nhiều từ một linh mục đang hấp hối. Nếu có khả năng lấy được một chút thông tin nào từ anh ta, thế là nhiều hơn đủ rồi.”

    “Tôi chỉ hi vọng tên này không cản đường chúng ta. Nếu gã đưa ra quyết định sai lầm thì…” Tôi dừng nói. Tôi không nên nói những thứ nguy hiểm trước mặt người bác sĩ đang chăm sóc gã linh mục.

    “Anh nghĩ quá rồi,” Cal nói, vỗ vai tôi với nắm đấm của mình. “Cứ cho rằng người linh mục chọn phe đối địch đi. Anh ta có thể làm gì trong tình trạng đó chứ? Anh ta còn không thể tự mình xuống núi.”

    “Anh nói cũng không sai nhưng tôi nghĩ anh đang quá lạc quan rồi.”

    “Tôi lạc quan gấp đôi so với người thường đấy. Nếu không tôi đã chẳng để một Đoạ thú đáng nghi như anh đến pháo đài.”

    Tôi không thể phản bác. Cũng chẳng buồn tranh luận thêm nữa, tôi nhấc chiếc nồi đựng bữa tối của chúng tôi lên.

    Sau khi tạm biệt Tito, Cal và tôi đưa thức ăn của mình đến phòng dành cho khách – nơi mà tôi thấy Zero đã say. Hẳn sau khi bị đuổi, cô hờn dỗi tìm đến rượu để giải sầu.

    “Chậm quá Dong bing!” Zero nói. “Ta chờ đến phát chán rồi đây. Ta không thích chờ đợi và ta cũng không thích ở một mình. Thế mà anh lại bắt ta chờ đợi một mình đấy. Thế mà anh gọi mình là lính đánh thuê của ta đấy?”

    Cal cười khổ. “Cô ấy uống khá nhiều rồi,” anh nói, gõ vào thùng rượu đặt trong góc phòng.

    Tôi thậm chí không còn tinh thần để giáo huấn cô ấy. Khi tôi bày thức ăn lên bàn, Zero với lấy một chiếc đĩa và bắt đầu ăn, vừa ăn vừa nói “ngon tuyệt!”.

u23589-d2d3227b-2641-4b90-8f06-ef63f598b69b.jpg

    “Cô không thường uống rượu mà, phải không?” Tôi hỏi. “Uống có chừng mực thôi, không thì cô sẽ bị ốm đấy.”

    “Rượu không đủ đô để làm hạ gục ta đâu,” Zero nói. “Anh nghĩ ta là ai chứ?”

    “Ai biết đâu. Cô là ai nhỉ?”

    Zero mở to hai mắt, như thể bị tổn thương sâu sắc. “T-tàn nhẫn quá Dong binh! Anh quên ta là ai rồi sao? Ta là Zero! Chúng ta gặp nhau ở trong rừng – nơi anh làm đổ nồi súp của ta, nên anh nấu cho ta một nồi khác. Anh không nhớ à? Hay số Mười Ba yểm một lời nguyền lên anh rồi? Loại lời nguyền sẽ lấy đi kí ức của anh? Không muốn! Không muốn! Ta sẽ không để anh đi! Anh thuộc về ta, Dong Binh!”

    “Này, đừng có tưởng thật! Tôi chỉ đùa thôi!”

    “Đùa?” Zero tò mò hỏi ngược.

    Zero nhìn có vẻ khó chịu, như thể cô không hiểu tôi đang nói cái gì. Rồi đột nhiên, cô gục đầu xuống bàn và bắt đầu ngủ gật.

    Không ổn. Cô ta hoàn toàn say xỉn rồi.

    Tôi không thể để cô uống thêm giọt nào nữa nên tôi lặng lẽ lấy đi cốc của cô.

    Thế là Zero trong nháy mắt mở mắt ra và cố dành lại cốc từ tay tôi. “Của ta! Trả cốc của ta lại đây!”

    “Quên nó và ăn cái này đi.” Tôi đặt một bát súp trước mặt Zero.

    Zero yêu món súp. Cô lập tức mất đi hứng thú với rượu và vui vẻ thưởng thức đồ ăn của mình. Tôi tập trung nhìn cô vì lo rằng cô sẽ ngủ gật lần nữa và úp mặt vào trong bát súp nóng.

    “Súp của Dong binh… Súp của ta… Ta có thể huỷ diệt thế giới vì món súp này.”

    “Làm ơn đừng.”

    Tôi lấy một miếng thịt heo xông khói từ đĩa của mình và bắt đầu ăn. Cal cũng ngồi vào ghế, dùng mỏ uống hết phần nước trong li của mình. Đó không phải là rượu mà chỉ là nước.

    “Vậy anh là kiểu người không uống rượu sao?” Tôi hỏi.

    “Không hẳn. Chỉ là, có lần tôi bay vào ban đêm khi đang say… Khi tôi thấy ánh sáng ở phía xa xa, tôi bay về phía nó, kể cả vào ban đêm. Thế là tôi lao xuống và đó là một thảm kịch. Từ đó là tôi kiêng rượu.

    À, phải rồi. Về cơ bản gã này như một cây gậy dễ gãy.

    “Bay được cũng hết sức vất vả, nhỉ?”

    “Thế nhưng đó cũng là một cái lợi. Niềm vui khi được tự mình bay lượn trên bầu trời quan đãng là thứ tôi không thể trải nghiệm nếu không phải là một Đoạ thú chim ưng. Tôi biết nói điều này có hơi kì lạ, nhưng tôi biết ơn khi được sinh ra như một Đoạ thú.

    Anh ta nói đúng, nó nghe kì lạ thật. Tôi bắn cho anh ta cái nhìn ngạc nhiên nhất tôi có thể nghĩ ra. Cảm thấy tự hào vì là một con quái vật là điểm dễ nhận thấy nhất của một Đoạ thú đã phát cuồng. Hẳn phải điên lắm mới có thể thật sự tự hào khi là một con quái vật.

    “Chú ý tới những điểm tồi tệ và chán nản chẳng có tác dụng gì cả,” Cal nói. “Không phải tiểu thư cũng khen anh đẹp sao?”

    “Cô ta khen bộ lông của tôi thì đúng hơn. Và cô cũng nhắc đến lông vũ của anh nữa, không phải sao? Chỉ cần là Đoạ thú thì cô ta đều thích.”

    Nghe tôi nói thế, Cal không khỏi bật cười.

    “Có gì buồn cười à?” Tôi hỏi.

    “Xin lỗi, chỉ là anh nói cứ như một người phụ nữ khó chiều. ‘Không quan trọng ả là ai, chỉ cần là phụ nữ anh đều thích chứ gì?’”

    “Hai cái này là hai cái khác nhau!”

    “Có khác gì sao?”

    Tôi bực mình vì không thể phản bác được.

    “Thấy chưa? Như nhau cả thôi. Cô tiểu thư thật sự nghĩ rằng anh rất đẹp. Điều đó có gì sai chứ? Anh khoẻ hơn người thường, và tôi có thể bay. Sức mạnh của chúng ta và đôi cánh của tôi là thứ không con người nào có thể có được dù họ có muốn ra sao. Anh nên tự hào một chút về bản thân.”

    “Anh đúng là một tên lạc quan đấy.”

    Tôi thở dài, chuyển ánh nhìn ra phía hành lang. Tôi nghĩ bởi vì mình nghe thấy tiếng của cây trượng gõ xuống mặt sàn.

    Những người mang bệnh tụ tập ở Pháo Đài Hoa Sen. Khá nhiều người sử dụng gậy chống. Tò mò, tôi nghiêng tai nghe.

    “Anh nên ngủ dưỡng sức chứ, thưa Cha. Anh vẫn chưa khoẻ để đi lại đâu.”

    “Tôi chỉ đi hít thở chút không khí trong lành thôi. Tôi có thể tự mình đi được.”

    “Lại là gã… Lần này gã lại đang âm mưu cái gì đây?” Tôi suy nghĩ trong chốc lát, rồi đứng dậy.

    “Có chuyện gì sao, Dong binh?”

    “Tôi ra ngoài hít thở chút không khí trong lành.”

    “Bị cảm lạnh không tốt cho vết thương của anh đâu.”

    Tôi tìm thấy cầu thang rồi lên đến trên lầu và bước ra một trong những tháp canh bao quanh pháo đài – nơi tôi tình cờ gặp gã linh mục đang ở ngoài hít thở không khí trong lành giống như tôi.

    Làn gió đêm lạnh len lỏi vào trong lớp lông, làm giảm thân nhiệt của cơ thể tôi. Làn gió lạnh này sẽ là một thứ chất độc cho cái người không có lông bọc và đã mất nhiều máu.

    Tito ngạc nhiên quay đầu lại, trong khi gã linh mục không có bất kì phản ứng nào.

    “Ồ, là anh à,” Tito nói, thở dài nhẹ nhõm. “Tôi đã quen với việc thấy dã thú, nhưng Đoạ thú đột ngột xuất hiện vẫn khiến tôi hoảng sợ. Vậy tôi có thể giúp gì cho anh? Có người bị thương sao?”

    “Không, chỉ là tôi ra ngoài hít thở chút không khí trong lành rồi tình cờ gặp hai người thôi. Dù thật ra, tôi đúng là có chuyện muốn nói.”

    Tôi nhìn thoáng qua gã linh mục trầm lặng và ngồi xuống lan can ban công đổ nát.

    “Vậy ư, thế tôi đi ăn chút đây. Anh có thể trông coi anh ta giúp tôi được không? Đúng như anh nói, cái lạnh sẽ ảnh hưởng đến vết thương của anh ta. Làm ơn hãy đưa cái người linh mục cứng đầu này về phòng càng sớm càng tốt.”

    “Được thôi. Cùng lắm thì đánh ngất anh ta rồi mang về phòng.”

    Tito cười trước câu đùa của tôi mà rời đi. Tôi chờ đến khi không còn nghe được tiếng bước chân của anh ta rồi nói.

    “Thế là?” Tôi hỏi thẳng. Gã linh mục không trả lời, nhưng tôi vẫn tiếp tục. “Cuối cùng anh cũng sắp xếp lại suy nghĩ của mình rồi chứ? Suýt nữa thì anh đã bị sát hại bởi vị thánh nữ anh thề sẽ bảo vệ, được cứu bởi một Đoạ thú thấp hèn, và giờ anh đang ở Pháo Đài Hoa Sen, căn cứ của phe thù ghét thánh nữ.”

    Gã linh mục cau mày trầm tư. Đây là lần đầu tiên, gương mặt vô cảm của hắn có chút cảm xúc. Gã thở ra một hơi dài, yếu ớt.

    “Ngươi không có một chút thương cảm với một người đang bị thương và đau buồn sao?”

    “Thật không may, Đoạ thú chúng tôi không hẳn là người.”

    Lời đáp mỉa mai cười nhạo của tôi khiến gã linh mục phát ra tiếng tặc lưỡi khó chịu. Tôi cứ nghĩ mình sẽ bị phớt lờ ngay sau đó, nhưng ngạc nhiên thay, gã tiếp tục.

    “Ta đã rơi vào bẫy của chúng,” gã nói. “Đáng lẽ ta không nên ra đứng ra vào lúc đó. Ta định tạo kẽ hở, nhưng lại bị chúng bắn hạ.”

    Hẳn là gã đang nói về lúc tôi chạy trốn khỏi sự truy sát của quân lính ở Thánh Đô. Gã nói đúng, nếu gã không ra trận để giết tôi thì gã đã không phải đồng thời gánh chịu đạn pháo với tôi.

    “Rơi vào bẫy, sao?” Tôi nói. “Họ phải gan lắm mới dám tấn công một phán quan. Hẳn là những thành viên gan dạ của phe phản Giáo hội đây. Chứ ai lại muốn giết anh đến thế, và vì lí do gì chứ?”

    “Ta không biết. Ta ra trận để giúp các người trốn thoát, nên ta không biết ai là người ra lệnh khai hoả.”

    “Gì chứ?”

    Tên này vừa mới nói gì vậy? Hắn bước ra để chúng tôi có thể trốn thoát?

    “Những người lính quyết định tự hành động sau khi thấy chúng ta giao chiến ở sân sau. Thánh nữ không thể cản họ lại vì cô không giỏi ra lệnh lắm. Cô ấy nói ngươi không làm gì sai cả. Cô đã rơi lệ. Cô không muốn hai người các ngươi bị giết. Vậy nên ta đã diễn một vở kịch để các người có thể trốn thoát an toàn. Nếu ta giao chiến với ngươi, quân lính sẽ không thể đến gần…Chờ đã, ngươi không nhận ra ta chỉ đang giả vờ sao?!”

    “Làm thế quái nào mà tôi biết được?! Rõ ràng là anh xuất trận để giết tôi.”

    “Tất nhiên là vậy rồi! Giao chiến với Đoạ thú mà vẫn nương tay thì chẳng phải ta sẽ là kẻ bỏ mạng sao!”

    Quả thật. Chờ chút, nhưng thế có nghĩa hắn vẫn cố giết tôi.

    “Ngoài ra, ta tập trung né đòn hơn là tấn công. Hẳn ngươi cũng có thể nhận ra điều này từ những đòn đánh không mang sát khí của ta.”

    “Không hề đoán ra được. Những đòn đánh của anh vẫn tràn ngập sát khí.”

    “Là một dã thú mà ngươi chậm tiêu thật đấy.”

    Tôi vẫn không bị thuyết phục, nhưng quyết định không đi sâu hơn, không thì cả hai sẽ tiếp tục tranh cãi rất lâu. Đúng là gã đã đóng vai trò như một tấm khiên tạm thời khi chúng tôi đang giao chiến.

    Hơi chuyển ánh nhìn phía tôi, gã linh mục tiếp tục. “Tình huống là thế này: có kẻ âm mưu ám sát Thánh nữ, khiến cả thành phố rơi vào hỗn loạn. Nếu ta xuất kích truy tìm kẻ ám sát và hi sinh, ngươi nghĩ ai là người sẽ nhận được lợi từ việc này?”

    “Tôi không định ám sát ai cả…”

    “Sự thật ra sao không quan trọng, mà là công chúng thấy gì cơ. Một phán quan từ Dea Ignis vì bảo vệ ứng cử viên cho vị trí thánh nhân mà chết. Ngươi có biết sau đó sẽ phát sinh chuyện gì không?”

    “Hừm…Ồ, là vậy sao!”

    “Đúng thế.” Gã linh mục thở dài khó chịu. “Một phán quan quyết tử vì đạo sẽ là bằng chứng hiệu quả để công nhận cô là thánh nữ. Sự hi sinh của ta để bảo vệ cô ấy sẽ đồng nghĩa với việc ta chính thức công nhận cô là sứ giả chân chính của Thượng đế. Một khi cô được chính thức công nhận là thánh nữ, sẽ không có ai dám nghi ngờ cô ấy nữa. Hay nói cách khác, việc ta xuất kích và tử trận là kết quả cực kì có lợi cho Thánh nữ.”

    “Anh nghĩ thánh nữ ra lệnh cho họ tấn công chúng ta?!”

    Dựa vào những gì gã linh mục nói, Lia là người cử gã đi. Sau đó cô cố loại bỏ cả hai người chúng tôi để được chính thức công nhận là một thánh nữ. Theo cách hiểu này thì mọi việc đều trở nên hợp lí.

    “Không, ta không hề nghĩa vậy,” Gã nhanh chóng phủ nhận. “Đừng nhảy đến kết luận như thế. Và đừng có hét lên, ảnh hưởng đến vết thương của ta đấy.”

    “Ai cũng sẽ đi đến kết luận đó sau khi nghe điều anh vừa nói.”

    “Ngươi không biết sao? Ta là một tên lừa đảo đấy.”

    Gã nói những lời không hiểu được từ đâu ra. Không phải những lời bạn mong đợi được nghe từ một linh mục. Lời thú nhận đột ngột của gã khiến tôi bối rối trong chốc lát.

    “T-tự nhiên nói cái gì thế? Không đời nào một linh mục lại gạt người được. Nếu anh thật sự có gạt người thì tự thú nhận bản thân là một tên lừa đảo không phải là ý hay đâu.”

    “Ngươi có biết phán quan từ Dưa Ignis được tuyển chọn bằng cách nào không?”

    “Chịu. Bảo mật quả Giáo hội nghiêm ngặt quá.”

    “Thế thì để ta sửa lại câu hỏi. Tin đồn tệ nhất mà ngươi được nghe về cách mà họ lựa chọn là gì? Cứ trả lời thật lòng đi. Ta sẽ không lấy thủ cấp của ngươi.”

    “Tôi nghe nói họ bị kết án tử hình nhưng lại được Giáo hội ân xá, đổi lại là họ phải làm những công việc bẩn thỉu cho Giáo hội.”

    Gã linh mục mỉm cười. Lại thêm một lí do để tôi ghét Giáo hội nhiều hơn. Lờ đi cái nhìn hằn học trên mặt tôi, gã linh mục tiếp tục.

    “Những kẻ bị kết án được vớt lên khỏi vực sâu của cái chết được ban cho cái danh ‘Tội nghiệt’ và được triệt để huấn luyện. Như ta đã nói từ trước, Tội nghiệt của ta là “Giấu giếm”. Nói cách khác, ta là phán quan với sở trường lừa gạt. Ta thật ra không phải quân chiến đấu. Công việc chủ yếu của ta là các hoạt động bí mật, và ta thường không ăn mặc như một linh mục.”

    Gã này không phải quân chiến đấu? Vậy thì những phán quan thiện chiến mạnh đến mức nào vậy?

    Nghĩa về nó khiến tôi cảm thấy chán nản.

    “Nói cho tôi biết về chuyện này không có vấn đề gì sao?” Tôi hỏi.

    “Không thành vấn đề. Ta đang lừa ngươi mà,” gã nói. “Ngươi tin ta à? Đầu óc đơn giản thật đấy,”

    Đầu tôi bắt đầu có chút đau nhức. Sẽ hợp lí hơn nếu đó là lời nói dối, thế nhưng đồng thời nó như thể gã đang nói sự thật.

    “Điều ta muốn nói là, những kẻ lừa gạt có thể phân biệt được ai là dạng người cả tin. Và Thánh nữ - cô Faelia, rõ là là kiểu người dễ bị lừa. Những kẻ kia có thể dễ dàng lợi dụng cô ấy.

    “Ừ thì đúng thật.”

    Tôi ghét phải nói điều này nhưng “xin hãy lợi dụng tôi đi” được viết rõ to trên khuôn mặt của Lia.

    “Những người cả tin không biết lời nói dối hoạt động ra sao. Không có chuyện cô ấy có thể lừa gạt và lợi dụng nhiều người như thế. Đó là lí do tại sao ta tin cô là một thánh nữ đức hạnh với năng lực thần kì. Cô ấy không thể nào là một phù thuỷ.”

    Gã linh mục sẽ không gọi Lia là phù thuỷ dù cho cô đáng ngờ, dù cho người xung quanh cô chết, hay dù cho gã phải hi sinh vì cô, miễn cô là một người đức hạnh. Việc cô sử dụng Ma pháp hay Ma thuật không phải là vấn đề. Tên phán quan này phán xét cô dựa trên nhân cách của cô.

    “Nhưng như anh đã thấy ở pháo đài này, thực tế có nạn nhân, và số lượng người ngày càng một tăng,” tôi nói. “Anh không thể bỏ qua điều đó, phải không? Hay anh nghĩ rằng thánh nữ không phải là người khiến họ bị bệnh.”

    “Ta không có dự định phớt lờ chuyện đang xảy ra. Nó rất khó để tin rằng Thánh nữ gây ra chuyện này. Phép màu đi kèm với sự hinh sinh, nên ta không thấy tình huống này có gì đáng ngạc nhiên. Tuy nhiên, lần này có quá nhiều nạn nhân. Chắc chắn có người đang giật dây sự việc từ phía sau hậu trường. Một kẻ nào đó lợi dụng phép màu của Thánh nữ để áp bức dân chúng.”

    “Cứ nghĩ mà xem.” Gã linh mục vẫy tay. “Lí do mà thiệt hại lan rộng đến mức này là vì kế hoạch của chúng đã hoàn thành. Để tìm ra kẻ chủ mưu, ta đã kéo dài quyết định của mình và đã thực hiện một số điều tra xung quanh thánh nữ, thế nhưng lại rơi vào bẫy của chúng. Đây là thất bại của ta.” Gã nhìn lên vầng trăng.

    “Nếu bây giờ ta quay trở lại Thánh Đô, ta hẳn sẽ bị kẻ chủ mưu ám sát. Tuy nói vậy, nếu ta trở về Giáo hội, những người ở trên sẽ tuyên bố Thánh nữ là phù thuỷ vì gây nguy hại đến phán quan. Mặc kệ ý kiến của ta, Giáo hội sẽ không dung thứ cho những ai làm hại đến người được Chúa trời ban cho quyền uy. Thánh nữ sẽ bị xử tử trong khi kẻ giật giây vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật.”

    Tôi không khỏi nhẹ nhàng bật cười. “Vậy chúng ta có cùng mục tiêu rồi đấy, Cha à. Chúng tôi cũng hứng thú với kẻ đứng sau đống lộn xộn này. Tôi có thể cho rằng anh sẽ hợp tác với chúng tôi?”

    “Dù ta khinh thường việc hợp tác với Đoạ thú đến mức nào, nhưng thánh vụ được ưu tiên hơn tất thảy. Cá nhân ta cũng không muốn thấy một người phụ nữ vô tôi bị xử tử. Thế nên…” Gã bất đắc dĩ thở dài một hơi. “Ngươi có thể cất thanh kiếm đó đi được không? Đoạ thú các người không thể trò chuyện bình thường được à? Ngươi có thể nghĩ ta không thể nhìn thấy, nhưng ta vẫn cảm nhận được xung quanh mình đang diễn ra cái gì. Ngươi cũng buộc tội ta là một kẻ sát nhân.” Gã bực tức nói.

    Tôi hạ tay đặt trên chuôi kiếm của mình xuống. “Tôi là một lính đánh thuê, tôi chả quan tâm đến cái gọi là phép lịch sự.  Nếu anh quay lại Thánh Đô hoặc chỗ Giáo hội, có nguy cơ anh sẽ để lộ thông tin về chúng tôi. Trong trường hợp đó tôi không thể để anh đi. Nhưng lính đánh thuê chúng tôi hoan nghênh bất cứ ai có thể trở thành chiến lực.”

    “Chà. Vậy thì ta đánh giá cao màn chào đón nồng nhiệt này.”

    “Tôi biết có hơi trễ để giới thiệu, nhưng anh có thể cho tôi biết quý danh của anh không, thưa Cha?”

    “Quả thật. Hơi trễ cho việc đó rồi. Ta không có tên.”

    “Thật sao?”

    Gã linh mục quay cây trượng của mình ra sau gáy, hai tay khoác lên trượng và nhìn lên trời.

    “Ta là phán quan của Dea Ignis, tội nghiệt được ban cho ta là ‘Giấu giếm’. Đó là cách họ gọi ta ở nhà thờ.”

    “Tôi tưởng cái này chỉ là nói dối.”

    “Riêng điểm này là thật.”

    “Ra vậy.”

    Đúng là gã giấu đi năng lực dị thường của mình giỏi thật, nhưng gọi gã bằng mấy cái tên kì lạ là thứ tôi không thể hiểu được.

    “Ngươi cũng chưa hề xưng nên, cũng không có tư cách để mà nói này nói nọ đâu.”

    “Tôi có phàn nàn gì đâu.”

    “Ta biết. Ta chỉ nói trước với ngươi vậy thôi.”

    Vậy sao? Tôi quay người để đi thì gã linh mục gọi tôi lại, như thể gã vừa mới nha ra chuyện gì đó.

    “Cảm ơn vì thức ăn. Mùi vị nó khá ‘đặc biệt’, và thật lòng mà nói, thức ăn cho lợn có khi còn tốt hơn, nhưng bác sĩ Tito đã rất ngạc nhiên. Anh ta nói các thành phần trong thức ăn tốt cho người đang bị thương.”

    “Thật sao. Tôi không biết đấy. Tôi chỉ hầm một số loại đậu và nấm tôi tìm thấy xung quanh.”

    “Hỏi thật lòng này: Ngươi thật sự nghĩ lúc này mình ngầu lắm à? Giả vờ làm kẻ xấu và rồi say sưa với nó chỉ được chấp nhận trước khi ngươi mười lăm tuổi.”

    “Giờ thì tôi hối hận vì đã không trộn thêm nấm độc vào món hầm,” tôi nói. “Thật ra thì, tôi chỉ đơn giản nấu nguyên liệu mà mình sẵn có. Anh không cần cảm ơn tôi.”

    “Có đáng để bày tỏ lòng biết ơn hay không là do ta tự quyết.”

    Đúng là một kẻ tự cao tự đại. Cũng không bất ngờ lắm khi phát ra từ miệng gã.

    “Chà, tôi không quan tâm lắm đâu. Vào trong đi trước khi anh bị cảm.”

    Tôi rời khỏi tháp canh.

    Khi tôi quay trở lại phòng, tôi thấy Phù thuỷ bùn đen kiêu căng đang nằm trên bàn, hoàn toàn say xỉn. Đĩa để lộn xộn ở xung quanh cô. Ly rượu thì nằm lăn lộn trên sàn, phần bên trong nó thì đổ ra khắp nơi.

    “Không khác gì một thảm hoạ,” tôi ngạc nhiên lẩm bẩm.

    Cal đang vỗ lưng Zero và cho cô nước. Cal nhún vai. “Tôi nãy giờ cứ khuyên cô ấy đi ngủ trước nhưng cổ không chịu nghe. Cô ấy nói mình không thể ngủ mà không có anh. Thành thật mà nói, hai người có mối quan hệ kiểu gì vậy?”

    “Cái giường và chủ nhân của nó. Khả năng đêm nay sẽ rất lạnh, nên cổ muốn bộ lông của tôi.” Tôi chọc vào má của Zero với đầu ngón tay của mình. “Này, cô phù thuỷ. Dậy nào.”

    Rên rỉ, Zero mở đôi mắt lờ mờ của mình và chìa cả hai tay ra. Dường như cô đang nói “Bồng ta đi”. Tôi bất đắc dĩ ôm lấy cô và cô cuộn tròn trong vòng tay tôi. Một giây sau đó cô hài lòng chìm vào giấc ngủ.

    “Chỉ cần là Đoạ thú ai cô ấy cũng thích, cơ đấy?” Cal nói. “Tôi nghi ngờ việc cổ thích lông vũ của tôi nhiều đến vậy.”

    “Cô ta giống như một đứa trẻ thích ngủ trên chiếc giường quen thuộc của mình hơn.”

    “Rốt cuộc anh vẫn không chịu thừa nhận nhỉ. Cũng không sao, chúng tôi đã chuẩn bị giường cho anh bên cạnh phòng của người linh mục. Chúng ta sẽ gặp nhau ở căn phòng này vào bình minh ngày mai để thảo luận về các kế hoạch sau này.”

    Sau khi nói lời cảm ơn anh ta, tôi bồng Zero đến phòng của cổ. Tuy nhiên, khi tôi có nhét cô vào giường, cô ấy không chịu buông cổ tôi ra.

    “Thả tôi ra,” tôi nói.

    “Không muốn. Nó là của ta!”

    “Không, nó không phải! Tôi là của bản thân tôi!”

Cô càng ôm chặt khi tôi cố tháo tay cô ra, nên tôi bỏ cuộc, tôi ngồi xuống giường với Zero trong vòng tay tôi. Dường như thoải mãn, cô dụi gò má mình lên cổ tôi.

    Mình thật sự chỉ là thú nuôi trong mắt cô ta…

    Là một người đàn ông, nó làm tôi buồn rầu, nhưng nếu tôi nói với Zero điều đó, có lẽ cô sẽ nhìn tôi bối rối.

    “Nhưng mình đoán thế này vẫn đỡ hơn việc bị sợ hãi.”

    Dù không phải như cô ấy cần sợ hãi một thằng nhát gan không làm được gì trong tình huống này như tôi.

    Trong một lúc, tôi băn khoăn không biết nên làm gì, rồi trước khi tôi nhận ra, tôi đã ngủ chung với Zero trên cùng một chiếc giường.

    Sáng hôm sau, Cal đánh thức chúng tôi rồi tập trung mọi người ở trong một phòng cùng gã linh mục.

    “Trời vẫn còn sớm mà,” tôi lẩm bẩm.

    “Loài chim thức dậy từ rất sớm.” Cal tỉnh bơ nói. “Ngoài ra, dường như anh là người duy nhất không thuộc kiểu ‘ngủ sớm dậy sớm’.” Anh ta nhìn thoáng qua gã linh mục.

    “Phía ta thường bắt đầu hoạt động của mình với tiếng chuông mặt trời mọc,” gã linh mục thẳng thắn đáp với giọng chế nhạo.

    Vậy là dù chúng ta có tạm thời hợp tác cũng không có nghĩa gã ngừng cư xử như một thằng khốn nạn. Tất nhiên tôi đã biết điều đó.

    Trái ngược với tôi, Zero còn còn không cảm thấy đói. Đúng hơn, trông cô hoàn toàn bình thường, như thể tối qua cô không hề say.

    “Ta thích ngủ, nhưng ta có thể thức ba ngày liền nếu ta tập trung.”

    Cả cô ấy cũng không phiền việc phải dậy sớm nữa. Không chỉ thế, cô đang nhấm nháp trái cây mà Cal đưa cho cô.

    Tôi dơ hai tay lên đầu hàng. Rồi tôi có cảm giác ai đó vỗ vai mình.

    “Ổn mà, tôi cũng đang buồn ngủ,” Tito nói, nở một nụ cười dịu dàng.

    Đồng minh duy nhất của tôi trong chuyện này là một con người bình thường thật khá mỉa mai.

    “Giờ thì, chúng ta bắt đầu thôi,” Cal bắt đầu với giọng điệu vui vẻ. “Một lần nữa, chào mừng đến với Pháo Đài Hoa Sen. Dong binh, Zero và thưa Cha.”

    “Trước khi ngươi tiếp tục, trở nên quá gắn bó với mấy người không nằm trong kế hoạch của ta,” Gã linh mục sắc bén nói.

    “Tôi không phiền đâu,” Cal mỉm cười đáp. “Tôi cũng không thích các linh mục lắm.”

    Dường như gã đối xử với tất cả Đoạ thú với cùng cái thái độ hà khắc kia.

    “Đúng hơn, chuyện sẽ diễn ra suôn sẻ nếu chúng ta không ưa gì nhau. Thứ gắn kết chúng ta với nhau là một mục tiêu chung. Miễn là nó không đổ vỡ, chúng ta có thể tin tưởng lẫn nhau.”

    Cal sắp xếp lại mục tiêu của chúng tôi.

    Mục tiêu của Cal là có được sự giúp đỡ của thánh nữ để sửa chữa nền y tế của đất nước này. Mục tiêu của của chúng tôi là tìm ra kẻ đang điều khiển thánh nữ và ngăn Ma pháp lan rộng. Còn mục tiêu của gã linh mục là giải phóng thánh nữ khỏi kẻ chủ mưu đứng sau khủng hoảng hiện tại và đưa ra phán quyết chính thức về danh phận của thánh nữ.

    Tất cả mục tiêu của chúng tôi đều có một điều kiện tiên quyết: gặp Lia. Do vụ ám sát, khả năng năng cao là Lia không thể rời khỏi Thánh Đô, vậy nên chúng tôi phải đến gặp cô ấy.

    Nhưng có một câu hỏi: Làm cách nào chúng tôi có thể gặp cô ấy?

    Cal thở dài. “Vấn đề là, chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi người phụ nữ đó được chính thức công nhận là thánh nữ vì sự ra đi của người linh mục. Một thánh nữ được giáo hội thừa nhận sẽ có quyền hành rất lớn. Đối đầu với thánh nữ cũng như đối đầu với Giáo hội. Cô sẽ ở một cấp bậc hoàn toàn khác so với lúc còn là một thánh nữ tạm thời.”

    “Nhưng không phải chúng ta đã sẵn sàng chống lại Giáo hội rồi sao?” Zero chen vào. “Ta không nghĩ địa vị được công nhận của thánh nữ sẽ thay đổi tất cả.”

    “Nó sẽ thay đổi tất cả, tiểu thư à,” gã linh mục cay đắng nói. “Chúng ta tập hợp tại đây vì trong tình huống tệ nhất, chúng ta sẽ phải giết Thánh nữ. Và lí do cho việc đó là: sinh mệnh của nhiều người quý giá hơn sinh mệnh của cô ấy. Điều này cô hiểu mà, đúng không?”

    Zero gật đầu. “Khi nói tình huống tệ nhất, ý anh là thánh nữ quyết định tiếp tục sử dụng phép màu của cô ta mà không suy xét, dẫn đến cái chết của nhiều người hơn, phải chứ? Vậy nó hoàn toàn hợp lí khi cứu nhiều người trong khi hi sinh một người.”

    “Nhưng nếu cô ấy được chính thức công nhận là một thánh nhân, giá trị quan của sinh mệnh sẽ bị đảo ngược. Sinh mệnh của một thánh nữ quan trọng hơn tính mạng của nhiều người.”

    “Ý anh là sao?” Zero hỏi.

    Gã linh mục do dự một lúc, nên tôi trả lời thay gã. “Hay nói cách khác, nếu chúng ta giết thánh nữ, quân lính thất bại trong việc bảo vệ cô và người dân đã để thủ phạm xâm nhập vào thành phố cũng sẽ bị phán có tội tương tự. Họ sẽ bị tử hình.”

    Zero chớp mắt liên tục. Dưới mũ trùm của mình, cô há hốc miệng hoài nghi, sau đó cong lên thành một nụ cười.

    “Anh trêu ta đấy à,” cô nói. “Anh không lừa được ta đâu, còn sớm tận một trăm năm đấy Dong binh. Cái đạo lý hoang đường như thế không thể nào tồn tại được.”

    “Tôi cũng nghĩ nó hoang đường, nhưng đó đạo lý của Giáo hội. Đúng không, Cha xứ?”

    “Đó là ý muốn của Chúa. Những người được Chúa Trời đặc biệt yêu thương phải được bảo vệ bằng mọi giá.”

    “Ý muốn của Chúa? Ngu ngốc làm sao” Zero khinh bỉ nói. “Đã 500 năm trôi qua từ khi Giáo hội tiêu diệt phù thuỷ và thiết lập quyền thống trị khắp thế giới và đây là giải pháp họ giữ được hoà bình? Mạng sống của nhiều người không quan trọng sao?”

    “Dừng ở đây,” tôi nói. Tôi cương quyết ngừng Zero lại vì dường như cô còn định nói tiếp. “Đây không phải lúc để bàn về chính trị, và nói cho linh mục tất cả những cái đó cũng sẽ không thay đổi được gì đâu.”

      Thấy Zero và gã linh mục không còn nói gì, Cal tiếp tục cuộc thảo luận. “Tóm lại là vậy đấy, chúng ta không có nhiều thời gian để lãng phí đâu. Vì cây cầu đã sụp, có lẽ cần ít nhất bảy ngày trước khi thông tin về cái chết của anh linh mục đây đến được tai Giáo hội. Nếu bao gồm cả ngày hôm qua, chúng ta còn sáu ngày. Chúng ta phải kết thúc chuyện này trước lúc đó.”

    “Nhưng chúng ta cụ thể cần làm thế nào đây?” Gã linh mục hỏi. “Đừng nói với ta ngươi định dùng dây thừng để leo xuống vách đá và xâm nhập vào Thánh Đô từ dưới hồ đấy.”

    “Không. Dù là tôi cũng không ngu đến mức đó. Chúng ta không có cách nào chuẩn bị thuyền, và dù cho có thể, chúng ta phải mang nó đến thành phố, đặt nó xuống hồ, và phải bò xuống để lên thuyền. Từng đó là quá nhiều thời gian để lính gác phát hiện chúng ta.”

    “Chúng ta không thể bơi qua hồ sao?” Zero hỏi.

    “Ta không nghĩ đó là ý hay,”  gã linh mục trả lời. Họ bỏ cuộc thảo luận chính trị qua một bên lúc này, nhắc nhở bản thân họ cần hợp tác với nhau. “Một loài cá khủng lồ tên là Fulgol sống ở dưới hồ. Nó không có độc nhưng rất hung dữ. Ta được nghe có kẻ ngu ngốc đến mức lặn xuống hồ và bị nó gặm mất chân.”

    Akdios ban đầu được xây để cho nhà vua trú đóng. Sẽ có những đối sách được đưa ra để chống lại sự xâm nhập từ trong hồ.

    Tôi rên lên một tiếng. “Cây cầu thì sụp, chúng ta không thể xâm nhập từ trong hồ, Cal cũng không thể bay vào từ trên trời. Về cơ bản chúng ta hết lựa chọn rồi.”

    “Chờ chút nào. Để tôi nói xong đã,” Cal thoải mái nói. “Akdios là nơi trú ẩn an toàn của nhà vua, nhưng thế là vô nghĩa nếu ông ta không thể thoát ra. Nên điều tôi muốn nói là—”

    “Có mật đạo dẫn ra ngoài sao?!”

    Cal gật đầu tự tin. “Tất nhiên, tôi không hoàn toàn chắc chắn về điều này. Thật ra tôi cũng chưa từng thấy mất đạo, thế nhưng tôi có quan hệ với người biết về nó.”

    “Thật kì lạ,” gã linh mục nói. “Nếu đúng là có mật đạo, tại sao các người trước đây không sử dụng nó? Nó hoàn hảo để bắt cóc thánh nữ.”

    “Không phải là chúng tôi không làm, mà là chúng tôi không thể.”

    “Không thể?” Tôi nói.

    “Lí do rất đơn giản. Nó quá nguy hiểm.”

    Gã linh mục cau mày. “Và ngươi đang định để bọn ta – những người mà ngươi mới chỉ gặp ngày hôm qua, đi qua cái mật đạo nguy hiểm đó sao?”

    “Có vấn đề gì à?” Cal hỏi.

    Không hổ là một cựu lính đánh thuê. Sử dụng người khác như một con tốt cũng không chớp mắt.

    “Ta sẽ không gọi đó là một vấn đề,” Zero nói, gõ ngón tay lên bàn. “Nhưng điều đó khiến ta bực mình.” Tuy rằng giọng nói hay biểu cảm của cô không hề có chút cảm xúc nào, nhưng điều đó càng chỉ rõ cô đang bực bội.

    Tôi thở dài một tiếng. “Vậy là chúng tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài sử dụng mật đạo, đúng không? Nói cho chúng tôi nó là loại mật đạo nào đi.”

    Cal dang rộng cánh một chút rồi thu chúng về. “Tôi mừng vì có một lính đánh thuê trong cuộc thảo luận này. Thật ra nó chỉ nguy hiểm với tôi. Dường như lối vào mật đạo nằm ở ngoài biển.”

    “Ah, ta hiểu rồi.” Zero nói. “Anh không biết bơi, đúng không?”

    “Còn tệ hơn thế,” Cal trầm ngâm nói. “Lông vũ của tôi hút nước, nó sẽ khiến tôi chìm xuống. Tôi chìm xuống ngay cả ở những con sông cạn. Nếu rớt xuống biển, tôi sẽ hết đường cứu.”

    Càng nghĩ càng thấy Cal tội nghiệp. Họ nói Chúa không cho nhiều hơn một món quà, nhưng anh ta thì tệ hơn. Chúa Trời đã lấy đi nhiều thứ để cho anh ta có khả năng bay.

    “Dựa vào dòng chảy của cuộc thảo luận, tiến vào mật đạo là nhiệm vụ của tôi,” tôi nói.

    “Không sai. Anh không cần bác sĩ nói với anh lúc này người linh mục không thể làm chuyện vất vả.”

    “Đúng vậy,” Tito gật đầu chắc chắn. “Thật lòng tôi ngạc nhiên anh ta có thể di chuyển nhiều đến mức này. Tôi mừng vì chúng ta có một lãnh đạo nhanh nhạy.”

    “Nhưng không có nghĩa anh ta không thể làm mọi thứ. Tôi sẽ có nhiệm vụ cho anh ta. À, và cả anh nữa đấy, bác sĩ.”

    “Chờ chút, cả tôi nữa ư?” Đôi mắt Tito mở to.

    “Trong bất kì trường hợp nào,” Cal phớt lờ Tito mà tiếp tục. “Anh phải làm nhiệm vụ của mình trước, không thì chúng ta không thể bắt đầu. Tôi muốn anh xuất phát đến Ideaverna ngay lập tức. Người trợ giúp của chúng ta sẽ dẫn anh tới mật đạo.”

    “Ideaverna?! Anh có thể kiếm một xe ngựa chạy nhanh và bắt nó chạy phi nước rút thì cũng phải mất ba ngày mới đến nơi! Không đời nào ta có thể kịp giờ được!”

    Lần cuối mà chúng tôi đi một xe ngựa cỡ lớn, mất bốn ngày để di chuyển từ Ideaverna đến Akdios. Lần này chúng tôi phải bắt đầu bằng cách kiếm một xe ngựa.

    Dường như ở pháo đài không có xe ngựa nào. Tôi nghi ngờ việc họ có ngựa nữa.

    “Ba ngày nếu anh đi con đường bình thường.” Cal mở bản đồ ra. “Đây là bản đồ được sử dụng trăm năm trước đây. Nó cho thấy có một con đường tiếp tế từ Pháo Đài Hoa Sen đến Ideaverna. Như anh có thể thấy, khoảng cách ngắn hơn nhiều so với đường chính. Tôi đã kiểm tra một số nhật kí cũ và thấy quân lính chỉ mất ba ngày để đi bộ từ Ideaverna đến đây trong những thời điểm khẩn cấp.”

    Zero thực hiện một số tính toán trong đầu rồi gật đầu. “Dong binh sẽ mất tầm hai ngày,” cô nói.

    “Nói thì dễ hơn làm đấy!” Tôi kêu lên.

    “Ta có thể thay đổi tính toán nếu thế quá khó khăn với anh.”

    “Thôi được rồi?! Đúng như lời cô nói!” Tôi khóc trong tuyệt vọng. “Tôi có thể đến nơi trong hai ngày nếu tôi chạy hết tốc lực mà không nghỉ!”

    “An tâm thật đấy,” Cal nói.

    “Chết tiệt. Mấy người cứ nói mấy lời mình muốn chỉ vì tôi không phải con người…Thế cái người giúp đỡ này là ai và tại sao họ lại biết về mật đạo này?”

    “Tôi không thể cụ thể nói cho anh. Cứ đến nơi được chỉ định đúng giờ và người đó sẽ liên lạc với anh. Tôi đã gửi một bồ câu đưa thư để báo trước cho đối phương tình hình. Tôi cũng bảo họ mang theo một thứ gì đó tượng trưng tàu thuyền như là một dấu hiệu.”

    “Không có ý xúc phạm nhưng sao nó cực kì đáng nghi thế.”

    “Tôi cũng biết vậy, nhưng anh cần phải tin tôi. Anh có muốn tôi chặt một ngón tay của mình như là bằng chứng tôi đang nói sự thật không?”

    “Làm thế chả có tác dụng gì. Tôi biết nhiều gã sẵn sàng chặt đi ngón tay của chúng để thuyết phục người ta tin vào lời nói dối của chúng.”

    “Thế thì tuyệt. Tôi không cần phải chặt đi ngón tay của mình.”

    Anh ta vẫn quá lạc quan như thường lệ. Khi anh ta chắc chắn tôi không định gặng hỏi nữa, Cal cuộn bản đồ lại và giao nó cho tôi.

    “Đã trải qua một trăm năm rồi, nên khu rừng hẳn đã nuốt chửng hầu hết con đường tiếp tế, nhưng lúc trước đi qua tôi đã bổ sung một vài kí hiệu. Tôi cũng viết thêm về tình trạng hiện tại của con đường nên anh có thể sẽ thuận lợi đến Ideaverna thôi.”

    “Chuyện gì sẽ xảy ra khi chúng tôi đến nơi?”

    “Làm theo chỉ dẫn của người giúp đỡ. Bản đồ đó sẽ là bằng chứng anh là bạn của tôi, vậy nên hãy chắc rằng anh sẽ không làm mất nó, được chứ?”

    “Thế còn mấy người thì sao? Đừng nói với tôi anh định ở pháo đài chờ thời cơ đấy.”

    “Giá mà dễ như vậy.” Cal cười nói. “Chúng tôi sẽ đánh đòn nghi binh. Chúng tôi sẽ giả vờ tập kích Thánh Đô với Talba và đồng bọn, rồi sau đó rút lui ngay lập tức. Đám người kia hẳn đang rất nhạy cảm sau lần ám sát thánh nữ. Họ sẽ cử một lượng lớn binh lực đuổi theo chúng tôi.”

    “Và an ninh trong thành phố sẽ bị nới lỏng…”

    “Tôi cũng hi vọng như vậy.” Cal vỗ nhẹ vào lưng tôi. “Chúng tôi trông cậy vào anh.”

    Và thế, tôi rời Pháo Đài Hoa Sen cùng với Zero.

Bình luận (0)Facebook