• Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Chương 04: Bít tết Hamburg hầm, Cà chua và Nấm các loại

Độ dài 5,784 từ - Lần cập nhật cuối: 2023-05-14 02:31:03

Có một điều mà tôi vẫn luôn thấy lạ, một câu hỏi đơn giản thôi, câu mà tôi chưa bao giờ hỏi ai hết. Đó là thứ tôi thường lôi ra nghĩ ngợi mỗi khi nằm trên giường chờ giấc ngủ tới, hoặc là khi đang ngồi trong bồn tắm và ngắm trần nhà.

Vì sao mà thời gian dường như luôn trôi qua mất trước khi ta kịp nhận ra?

Khi tôi vẫn còn là một đứa trẻ, mỗi ngày đều thật dài và bận rộn, hai chiếc kim đồng hồ cứ vậy mà quay vòng vòng. Thế rồi trước khi tôi kịp nhận thấy, kim đồng hồ đã bắt đầu chạy nhanh hơn và một ngày trôi qua chỉ trong khoảnh khắc. Mùa nọ nối gót mùa kia, đã hơn năm năm kể từ lần cuối tôi gặp bạn bè mình.

Dù sao, thời gian vẫn cứ vùn vụt không ngừng. Ngoảnh đi ngoảnh lại, ta đã bị nó cho hít bụi rồi, chỉ còn biết cố gắng đến tuyệt vọng để đuổi theo cho kịp và bỏ qua biết bao điều, chẳng còn đâu thời gian để mà nhận ra những thứ quan trọng với bản thân.

Mặc dù thật khó để làm thời gian trôi chậm đi, nhưng đôi khi ngừng chạy và nhìn lại xem điều gì quan trọng với chính mình cũng là điều tốt. Cứ ngồi xuống, bình tĩnh và thả lỏng người. Hít thở từ từ, nhâm nhi một tách cà phê đặc và thư giãn trong một nơi được tách rời khỏi phần còn lại của thế giới.

Quán cà phê là một nơi như vậy đấy, tôi muốn trở thành chủ một cái quán như vậy.

Đó là những suy nghĩ của tôi trong khi đang lau một chiếc ly thủy tinh. Vì sao ư? Vì tôi chẳng có gì để làm hết.

Vẫn như mọi khi, quán vắng khách. Cũng không phải là hoàn toàn không có khách nào, tức là tôi đã tiến bộ hơn so với khi mới mở quán.

Ở thế giới này, mọi thứ đều được truyền bá bằng miệng. Dĩ nhiên, tôi có thể phát tờ rơi hoặc là đặt quảng cáo trên mấy cái bảng thông báo, nhưng mà chi phí cho những phương pháp này đủ để khiến mắt tôi lòi ra khỏi hộp sọ. Đó là lý do vì sao cách duy nhất tôi có thể làm là nhặt từng-khách-một.

Tôi không thể hấp tấp được, nhưng mà trái tim con người là cái kiểu mà mỗi ngày trôi qua với ít khách như vậy, sự nôn nóng và nỗi lo âu lại càng tăng. May mắn là tôi đã phát triển được một nhóm khách quen, nhưng dù vậy thì vẫn có những đêm mất ngủ vì lo lắng. Phải những hôm như thế, tôi sẽ ngủ bù vào ban ngày.

Trong khi tôi đang lau chén, việc mà hôm nào cũng làm, thì chuông cửa vang lên báo hiệu khách đến.

Một người phụ nữ với mái tóc dài màu bạc đi vào, bước chân không tiếng động, lặng lẽ đến mức người ta phải tự hỏi có phải cô ấy đang lướt trong không khí. Dáng đi của cô khiến người khác phải ngước nhìn, ánh mắt kiên định phát ra từ biểu cảm dịu dàng trên khuôn mặt cô.

Cùng với chiều cao của mình, người phụ nữ tên Albell này tạo ra một ấn tượng bảnh bao hơn là một cô gái dễ thương. Cô bước lại quầy tiếp khách với dáng vẻ của một người mẫu thời trang.

“Này, chủ quán,” cô chào.

“Xin chào, Albell. Hiếm khi thấy chị đến vào giờ ăn trưa nhỉ.”

“Ừ, tôi vừa mới trở về từ mê cung tối qua, thế nên hôm nay được nghỉ.”

“Em đoán đó là lý do chị mặc đồ nhẹ nhàng hơn bình thường.”

Những khi chuẩn bị đi làm, Albell thường mặc áo giáp nhẹ cùng với một thanh kiếm dắt bên hông. Tuy nhiên, hôm nay cô lại mặc quần áo hơi khác một chút. Cô đang mặc bộ đồ hiệp sĩ có màu lạnh, chiếc quần bó sát tôn lên những đường nét của đôi chân, cùng với một đôi giày cổ thấp bên dưới.

Đó là một bộ đồ đơn giản, nhưng đi với cái vẻ đẹp không tưởng của cô ấy, bất kỳ lời khen nào tôi có thể nghĩ ra cũng đều nghe thật tầm thường.

Tôi muốn chụp một tấm ảnh và treo nó lên trong phòng ngủ.

Đang nghĩ vậy thì tôi để ý thấy Albell trông có vẻ bồn chồn.

“Sao cậu nhìn chằm chằm vậy… Trông tôi có gì lạ lắm à?”

Rõ ràng là tại tôi đã nhìn lâu quá nên bị hiểu nhầm đây mà.

“Không, em chỉ muốn có chị trong phòng mình thôi.”

“Eh?”

“Chết cha nói nhầm; bộ đồ rất hợp với chị ạ, không có gì kỳ lạ hết.”

Tôi đã nói ra suy nghĩ thật lòng của mình sai cách, thế nên phải vội vàng chữa lại, khiến cho cô ấy thở phào nhẹ nhõm và mỉm cười.

“Cậu nói vậy tôi yên tâm rồi, chủ quán ạ. Cậu không phải loại người hay nói dối.”

“Em chẳng có mục đích nào để nói dối cả. Lần sau em sẽ cố nghĩ ra điều hay ho hơn để nói, thật là nhiều luôn.”

“Vậy tôi sẽ chờ cậu nhé. Cho tôi một cà phê được không, giống như mọi khi ấy?” Cô hỏi, tay vuốt tóc ra phía sau.

Mặc dù cô ấy chỉ vuốt tóc thôi, tôi đã có cảm tưởng như đang xem một cảnh phim và sững sờ đến không thốt nên lời. Albell là người mà bạn sẽ tưởng rằng là một siêu mẫu hoặc diễn viên nổi tiếng, nhưng ngạc nhiên chưa, cô ấy kiếm sống bằng nghề thám hiểm mê cung.

May mắn thay, cô ấy là một trong số ít những người yêu cà phê. Trong khi tôi châm nước vào bình syphon và đặt mồi lửa bên dưới, Albell khép lại đôi hàng mi dài, ngồi tận hưởng không khí trong quán. Một lúc sau, âm thanh sôi sục của cà phê trong bình lấp đầy sự im lặng.

“Xong rồi đây,” tôi nói, rót cà phê ra cốc và giữ nó ở phía trước, dụ cô ấy phải mở mắt ra nhìn tôi.

“Cảm ơn cậu.”

Ánh mắt và lời cảm ơn ấy làm tôi choáng váng mất một lúc. Đây là khoái cảm nhục dục ư?

Albell nâng cốc lên miệng, rồi đưa lên môi sau khi đã ngửi mùi thơm.

“Ừm, ngon lắm.”

“Vậy thì tốt rồi,” tôi trả lời.

“Cà phê của cậu đúng là tuyệt nhất đấy, chủ quán ạ.”

“Cảm ơn chị có lời khen.”

Tôi cười lại với Albell. Chúng tôi lúc nào cũng nói chuyện y như vậy mỗi khi cô ấy uống cà phê của tôi, nó giống như kiểu một màn chào hỏi truyền thống giữa hai người bọn tôi vậy.

GhfFrZO.jpg

“Ước gì mà tôi cũng được uống thứ này trong mê cung. Nhai hạt cà phê thì có thể tỉnh táo đấy, nhưng chẳng dễ chịu tí nào.”

Tôi nhăn mặt. Ở thế giới này, dường như cà phê chỉ được dùng làm chất kích thích là chủ yếu. Nó không được rang lên, xay ra rồi pha thành đồ uống, hạt cà phê không có một chút liên quan nào đến đồ uống cả.

Nói cách khác, thứ tôi gọi là ‘cà phê’ hoàn toàn mới mẻ đối với con người ở thế giới này. Công sức của tôi đã đâm hoa kết trái khi ngày một nhiều người hơn hiểu được cái hay ho của vị cà phê. Ấy thế mà hồi đầu còn chẳng bán được. Mặc dù dĩ nhiên, chuyện đó cũng là lẽ thường thôi, khi mà nó là một thứ đồ uống đen sì bí hiểm chưa ai từng nghe nói tới, chưa kể lại còn được làm từ thuốc kích thích. Ai mà vui vẻ uống được một thứ như vậy thì chắc chắn phải là kẻ bất thường.

Albell là một trong số những kẻ kỳ dị đó.

Ban đầu, cô ấy chỉ tò mò nếm thử theo lời đề nghị của tôi, nhưng rồi sau đó lại trở thành một trong những khách quen. Cô thường tạt qua thưởng thức vài tách cà phê mỗi khi có thời gian, có thể là trước khi vào mê cung, sau khi trở về, hoặc là bất cứ khi nào cô được nghỉ.

Tôi rất mừng khi cô hay đến quán, nhưng cũng lo rằng uống nhiều như vậy thì Albell sẽ trở thành người nghiện caffeine mất thôi.

Cô làm một ngụm đầy trước khi đặt lại tách lên cái đĩa.

“Lúc nào đến đây tôi cũng thấy nơi này thật yên bình,” cô nói và trìu mến nhìn ra ngoài cửa sổ.

“Ừ thì, quán này cũng bình thường mà.”

“Bình thường hả? Tôi cảm giác mình đã quên mất nó là như thế nào rồi. Nhất là khi tôi đã dành quá nhiều thời gian trong mê cung.”

Nếu thế thì hiển nhiên là cô ấy sẽ quên luôn ‘bình thường’ là như nào, tôi không bình luận gì về chuyện đó cả.

Mê cung ở thị trấn này đích thị là một môi trường ngoài hành tinh. Nó vẫn đang tiếp tục mở rộng ngày một sâu hơn xuống lòng đất, không ai dám chắc khi nào nó sẽ dừng lại. Ngay cả bây giờ, những mạo hiểm gia vẫn tìm cách để đi xa hơn vào bên trong. Họ chiến đấu với những sinh vật, những con quỷ không thể tưởng tượng nổi, thế nên dĩ nhiên là tách biệt hẳn với cái sự bình thường rồi.

“Dạo gần đây tôi bận quá, tại Học viện đang muốn dạy kỹ năng chiến đấu,” cô nói với tôi.

“À, cái chuyện năm nào cũng làm đó hả?”

“Ừ, chính nó đấy.”

Chúng tôi nhìn nhau cùng nhăn mặt.

Khi lọt được vào nhóm có đẳng cấp cao hơn trong học viện tọa lạc ở trung tâm thị trấn, sẽ có những bài học về kỹ năng chiến đấu được tổ chức bên trong mê cung, nơi mà bạn về cơ bản sẽ bị ném vào cho đánh nhau với những con quỷ tương đối an toàn ở tầng trên. Các học viện phép thuật, những người muốn trở thành mạo hiểm gia và tương tự thế sẽ tham gia các bài luyện tập này, thế nên thường sẽ gặp phải một lớp toàn những con ngựa non háu đá.

“Lúc nãy chị có nói bận rộn, có phải chị không?” tôi nói, để ngỏ câu hỏi dở dang.

“Ừ, tổ đội của tôi phải lo cái đám năm nay.”

“Rất thông cảm.”

Quả không có gì phiền phức hơn một kẻ tự tin vào bản thân quá mức, một nhóm người mà không tự đánh giá chính xác được sức mạnh của mình cũng sẽ chẳng thể chắc chắn an toàn, dù cho có là ở những tầng mê cung tương đối nông đi nữa.

“Có vài học sinh lớp trên kinh nghiệm kha khá cũng đăng ký vào lớp, nhưng họ không thể đối phó với những thứ không lường trước được, thế nên cần có mạo hiểm gia hỗ trợ,” cô giải thích trong khi xoay xoay lọn tóc bằng đầu ngón tay.

“Chuyện là thế đấy, cậu biết không?”

Đôi mắt cô nhìn tôi như muốn bảo tôi mở miệng.

“Chị thấy sao,” tôi hỏi chỉ vì tò mò, khiến cô lắc đầu với một vẻ mệt mỏi hiếm khi nhìn thấy.

“Tôi không hợp với chuyện này, cái chuyện dạy dỗ người ta hay trở thành cấp trên. Nếu phải chọn, tôi thà cầm kiếm đánh nhau với một con orge còn hơn.”

“Một lần nữa, rất thông cảm với chị.”

Orge là một loài quái vật cao cấp hơn kobold. Mặc dù có hình dáng gần giống với con người, nhưng cơ bắp của chúng thì ngoài sức tưởng tượng, đánh nhau với nó chỉ với một thanh kiếm thôi là đủ biết khó nhường nào.

“Và không cần biết là dặn dò bao nhiêu lần trên bàn học, họ vẫn không thể hiểu được sự nguy hiểm của mê cung. Họ đọc sách và nghĩ là mình biết tuốt. Họ có kiến thức sách vở, nhưng không hiểu được rằng thực tế không phải lúc nào cũng giống sách, tôi lo rằng hôm đó sẽ có người chết thật mất thôi.”

Nói là nằm trong nhóm cao cấp, nhưng họ vẫn chỉ là học sinh trung học giống như tôi. Có vẻ hơi khó để mà bọn trẻ với kinh nghiệm sống tầm cỡ tôi có thể nhìn nhận mọi thứ khách quan, hay là biết giới hạn của mình để mà cân nhắc hành xử theo đó.

“Thôi thì, bọn nó vẫn còn trẻ mà, ở tuổi đó đứa nào chẳng vậy.”

Albell tròn mắt ngạc nhiên khi nghe tôi nói vậy.

“Chị nhìn thế là sao?” tôi hỏi lại bằng một ánh mắt trách móc.

“Không có gì, tôi chỉ bất ngờ vì cậu đánh giá thấp bản thân quá thôi.”

“Chị nói thế chứ, em chỉ là một chủ quán cà phê, đúng không? Chỉ là một người hoàn toàn tầm thường.”

“Không hẳn. Ít nhất là tôi rất có thiện cảm với cậu, cậu chẳng hề giống bọn trẻ con ở học viện tí nào.”

“Em mới là người nói ‘không hẳn’ với chuyện đó chứ. Em yếu như sên và chẳng biết cái gì cả, tệ hơn nhiều, không phải vậy sao?”

Tôi dang hai tay ra như để thể hiện cái sự yếu đuối đó. Albell đưa tay vuốt cằm, “hừm” một cái và nhìn tôi vẻ như đang đánh giá. Ôi, cái cảm giác này là sao đây, mình đang được nhìn ngắm bởi một quý cô xinh đẹp. Cảm xúc trong tim mình lúc này… là tình yêu ư?

“Ừ, cậu đúng là chẳng có mấy cơ bắp.”

“Em bảo rồi mà.”

“Cậu không thể nào vung kiếm được.”

“Đúng luôn.”

“Da cậu rất là đẹp.”

“Chị bị lạc đề rồi.”

“Ngón tay cậu rất dài, lông mi cũng dài nữa.”

Tôi thở dài, “Vậy ư?”

“Hmm… cậu làm sao thế nhỉ, có thật cậu là con trai không đấy? Như này thì là yếu đuối hay nữ tính đây? Nếu tôi mà mặc váy cho cậu thì chắc không thể phân biệt nổi mất.”

“Không không không, em đâu có nói chuyện với chị về cái này.”

Albell đang nghĩ ngợi về chuyện đó, nhưng câu cảm thán của tôi đã mang cuộc đối thoại về đúng chỗ.

“Phải rồi. Ừ thì, cậu đúng là hơi bị nhỏ xinh quá để làm một mạo hiểm gia, nhưng mà giá trị con người ta đâu phải chỉ được quyết định bởi sức mạnh, đúng không?”

Tôi gật đầu, đúng là không thật.

“Ngoài ra,” cô nói tiếp, “nhìn cậu cứ có cảm giác… như thấy vòng tuổi của cây.”

“Vòng tuổi?”

Thứ mà cho biết tuổi của một cái cây khi nhìn vào gốc ư?

“Cậu lúc nào cũng điềm tĩnh như thể ngoài ba mươi rồi ấy.”

“Thật sao?”

Bản thân tôi không nhận thức được điều đó, nhưng cô ấy thì gật đầu rất chắc chắn.

“À, chắc có lẽ là tại cách em được nuôi dạy đấy,” tôi nói, bật cười trước cái cách so sánh của Albell.

“Tôi có nghĩ về chuyện này được một thời gian rồi, cậu rất là bí ẩn nhé. Màu tóc và màu mắt khiến cậu trông có vẻ là người nước ngoài, xét ngoại hình nói chung thì không còn nghi ngờ gì nữa. Kỹ năng tính toán và ăn nói của cậu rất tốt, cậu hành xử như một người có giáo dục, nhưng lại thiếu nặng những kiến thức phổ thông về thế giới. Nó giống như kiểu cậu là một quý tộc ngoại quốc hay là con trai của một thương nhân vậy…”

Biểu cảm dịu dàng ban nãy của Albell trở nên sắc bén, khiến tóc gáy tôi dựng hết cả lên. Chỉ mới nghiêm túc hơn một tí mà đã như vậy, chẳng hiểu cô ấy sẽ đáng sợ đến thế nào khi chiến đấu trong mê cung đây?

Tôi giật mình trước phân tích và suy luận của cô ấy, sự hăm dọa liền đột ngột biến mất.

“À, xin lỗi nhé,” cô nói, “thói quen ấy mà. Ai cũng có hoàn cảnh riêng của mình, tôi không có ý tọc mạch đâu.”

“Không, không sao đâu mà.”

“Nhưng mà cậu đúng là rất thú vị,” cô nói, nhấp một ngụm cà phê.

“Ít nhất thì,” cô nói thêm, “tôi ngạc nhiên rằng cậu có thể làm ra một món tuyệt ngon thế này.”

Trên đời ai có thể giữ nổi bình tĩnh trước một nụ cười quyến rũ đến như vậy chứ? Không, chắc chắn là không rồi. Lý do duy nhất tôi không tỏ tình với cô ấy ngay và luôn là do chuông cửa kêu lên. Ánh mắt tôi lập tức bắn về phía đó và thấy một dáng hình nhỏ bé lẻn vào, Noltri.

Noltri ngồi vào chiếc ghế quen thuộc, cái nằm thứ hai tính từ cửa sổ, nằm áp má xuống quầy tiếp khách.

“Yuu… như mọi khi…”

“Chào buổi sáng, Noltri. Trông em lại bơ phờ rồi.”

Tôi không thể nhịn cười. Noltri là một khách quen ở đây. Tôi từng lo lắng không biết chuyện gì đã khiến một đứa mười tuổi trở nên thờ ơ như thế, nhưng hóa ra con bé lại là một cô nàng mạnh mẽ với sức sống đầy quyến rũ.

Tôi thấy tiếc phải dừng cuộc trò chuyện với Albell, nhưng rồi vẫn quyết tâm đi ra làm. Pha cho Noltri món cafe au lait ưa thích của con bé là việc cần phải xử lý.

Vì đã làm món này vô số lần kể từ khi mở quán, thế nên tôi khá là thành thạo. Cà phê được pha chỉ trong phút chốc, tôi bèn trộn nó với sữa nóng và thêm đường để hoàn tất.

Tôi đặt cà phê xuống trước thân hình uể oải của Noltri, con bé chầm chậm nhìn cái bát rồi chỉ ngỏng dậy mỗi cái đầu để thổi phù phù lên mặt nước. Thế rồi vừa lúc tôi tưởng nó chuẩn bị uống, Noltri lại mất hết năng lượng. Con bé đúng là loại người ‘chẳng việc gì phải vội’.

Làn da của Noltri trắng như tuyết, khuôn mặt thì nhỏ nhắn. Nếu đôi mắt con bé mà có thêm tí sức sống nữa thì sẽ đủ quyến rũ đến mức không ai có thể bỏ mặc. Tuy nhiên, con bé chẳng có động lực cho bất cứ cái gì, thế nên chắc sẽ chẳng bao giờ được thấy chuyện đó, tôi nghĩ vậy. Nhưng, đó mới là nét quyến rũ của Noltri.

“Noltri, ở Học viện thế nào em? Anh nghĩ là vào lớp rồi đấy.”

Noltri ngẩng mặt lên.

“Học… viện…?”

“Đừng làm cái mặt như kiểu mới nghe thấy lần đầu vậy chứ.”

“Hôm nay… không có… lớp nào cả.”

“Tất nhiên là có rồi, anh nhìn thấy bọn nhóc mặc đồng phục chạy ngang cửa quán mà.”

“Bọn nó… học trường khác…”

“Anh cứ nghĩ là chỉ có một trường ở thị trấn thôi chứ nhỉ.”

Một tia mồ hôi lóe ra trên trán Noltri trong khi con bé cắn môi. Sự dồn ép của tôi đã chặn hết đường chối cãi. Tôi nhấc bát cafe au lait lên và dùng bàn tay để quạt cho hơi nóng bay về phía con bé. Noltri bèn bật ra một âm thanh bất bình trước khi đầu hàng.

“Em trốn học…”

“Vậy sao, ổn thôi.”

“Ổn thôi ư?” một tiếng thì thầm phát ra từ phía bên. Tôi nhìn sang đó và thấy nụ cười gượng gạo của Albell, bèn vẫy tay với cô ấy.

“Rồi, em có muốn ăn trưa không?” tôi hỏi Noltri và nhận lại một cái lắc đầu, ngụ ý rằng con bé vẫn chưa thấy đói. Bỗng thấy có chuyển động qua khóe mắt, tôi quay ra thì thấy Albell đang làm một chuyển động nho nhỏ bằng tay. Tôi bèn đi về phía cô ấy vì nghĩ rằng cô đang gọi tôi, hai má Albell liền ửng đỏ.

“Tôi… muốn ăn trưa,” cô rụt rè nói, đầu cúi gằm và mắt nhìn xuống đất. Tất nhiên, tôi chỉ có thể tuân lệnh. Tôi rùng mình khi nhận ra rằng trên đời này lại có một sinh vật đáng yêu đến thế, trước khi rũ bỏ những cảm xúc đó ra khỏi đầu với một hơi thở dài và gật đầu mỉm cười.

“Có cái gì chị muốn ăn không?”

“Gì cũng được, miễn là tươi, cho đến tận hôm qua tôi vẫn chỉ có mấy món ăn nhẹ đi đường với đồ ăn khẩu phần,” Albell nói như thể đang muốn kiểm tra tôi, cô mỉm cười và nghiêng đầu, từ đôi mắt phát ra một tia tinh nghịch.

Tôi khoanh tay suy nghĩ.

Đồ ăn tươi thì salad là dễ nhất. Cô ấy có nhắc tới đồ ăn nhẹ đi đường và khẩu phần, thế nên chắc hẳn đã lâu chưa được ăn món gì phức tạp. Dinh dưỡng là trên hết khi ở trong mê cung, và gia vị thì thường cho rất đậm. Đồ ăn trong đó cũng thường là rất cứng và khô bởi họ muốn để được lâu, kiểu như bánh quy, thịt khô hay đại loại thế.

Vậy thì thế này chắc chắn là hay nhất, tôi nghĩ trong đầu và nở một nụ cười quyết liệt với Albell.

“Em sẽ cho chị ăn cái gì đó từ đồ dự trữ.”

Tôi đi vào bếp và lấy nó ra từ trong tủ lạnh. Trên khay chỉ có hai cái, nó thật sự là đồ tôi dự trữ. Thứ này tôi vẫn đang thử nghiệm nên không có sẵn nhiều.

Bên kia quầy tiếp khách, Albell dướn cổ lên một cách dễ thương để cố nhìn xem tôi đang có cái gì. Tôi chẳng hé nửa lời, đặt chảo lên bếp trong khi chuẩn bị và sắp xếp các loại nguyên liệu và gia vị sẽ cần dùng, lôi ra thứ này thứ nọ từ trên giá, trong tủ lạnh và tủ chén.

Nhờ có Corleone, dạo gần đây tôi ăn rất nhiều món dựa trên cà chua, hôm nào cũng nghiên cứu ra công thức mới để làm với chúng. Tôi sẽ dùng cà chua với cả món này nữa.

Song, trước tiên tôi phải áp chảo một vài loại nấm khác nhau lấy từ trong mê cung. So với thế giới của tôi, nấm ở đây trông hơi đáng sợ. Làm nóng chúng lên sẽ giải phóng nước bên trong, và nó sẽ có vai trò là một loại nước cốt rất ngon để kết hợp tất cả hương vị lại với nhau.

Hiện giờ, nấm thường được trồng trong mê cung, hơn thế nữa lại còn có vô số loại khác nhau. Có hẳn một góc chợ chỉ dành để bán mỗi nấm thôi. Có vài loại khiến bạn phải nghi ngờ liệu chúng có ăn được không, loại khác thì nhìn như trái cây, vân vân, chỉ nhìn thôi cũng thấy vô vàn. Bởi vì có quá nhiều nên tôi không biết làm thế nào để nấu ngon tất cả các loại nấm.

Ví dụ, mấy loại nấm tôi đang dùng đây cái thì trông như con hàu, cái thì như nấm shiitake, cái thì đen sì, còn cái kia lại đỏ tía, thế nên cần phải có lòng dũng cảm mới dám ăn thứ này. Nếu nấu như thế này, chúng có thể tạo ra nước cốt mà nấu thành súp khá ngon.

Chúng rất tuyệt vời, đủ ngon để dùng trong ẩm thực cao cấp, nhưng lại rất rẻ vì nguồn cung sẵn có.

Ấy chết, tôi thuyết giảng về nấm nhiều quá rồi.

Nấm đã sôi lên trong chảo. Tôi vắt hết nước ra, để sang một bên rồi cho miếng thịt vào chất lỏng trong chảo. Tiếp, tôi cho thêm cà chua bỏ vỏ đã được hấp chín, nghiền nhỏ ra và rót rượu vang đỏ vào. Tôi dùng một số thảo mộc để điều tiết hương vị rồi cứ thế đun dưới lửa nhỏ.

“Cậu làm tôi bất ngờ đấy,” Albell nói, mắt mở lớn, “thực hiện được nhiều kỹ thuật như thế, cậu cũng là một đầu bếp cao cấp nữa à?”

Sự ngạc nhiên của cô ấy khiến tôi bật cười.

“Không hẳn, chỉ là sở thích của em thôi.”

Tôi vẫn luôn chuẩn bị đồ ăn cho bản thân, thế nên đúng thật là chỉ nấu cho mình là chính. Tiêu chuẩn ăn uống ở đây cao bất ngờ do sự dồi dào của của các loại gia vị và nguyên liệu từ mê cung, đủ cao để một người đến từ thời hiện đại như tôi không thất vọng tí nào. Tuy nhiên, đó hẳn cũng chính là lý do mà nghệ thuật nấu ăn ở đây không phát triển cho lắm. Thực phẩm luôn sẵn có, và có lẽ bởi vậy nên không ai chủ động hay nhận thức được rằng phải sáng tạo, thử nghiệm và làm đồ ăn trở nên ngon hơn, hay là kết hợp các thức với nhau.

Thịt luôn được nêm gia vị thật đậm, sau đó rán lên hoặc là luộc. Khi ăn đến chán chê rồi, người ta sẽ dùng loại gia vị khác, kiểu như vậy. Trong thị trấn có rất nhiều mạo hiểm gia, thế nên đa số các nhà hàng đều phục vụ đồ ăn có vị rất mạnh, thức ăn mà sẽ hợp để nhắm với rượu, hoặc có thể mua được cả đống với giá rẻ. Dù cho bạn có dành thời gian công sức để chế ra cái gì đó khác biệt, người ta cũng chẳng có mấy nhu cầu. Tôi từng nghe đồn rằng nền ẩm thực ở thủ đô có phát triển hơn, chắc hẳn bởi vì đó là một thành phố có rất nhiều hoàng tộc, quý tộc, những người ở tầng lớp tinh hoa sinh sống.

Thỉnh thoảng tôi lại lật miếng thịt và nếm thử nước sốt đang dần đun cạn. Ừ, thế này được rồi đấy. Cuối cùng, tôi cắt một lát ra từ tảng pho mát và đặt lên trên cùng, sau đó đậy nắp chảo.

Albell mỉm cười, cô đang nôn nóng ngồi đợi đồ ăn sau khi đã uống cạn tách cà phê. Tôi mang cho cô ấy một lát bánh mì và một phần salad đơn giản trong khi đợi tôi nấu, nhưng ngay cả khi không cần nhìn, tôi vẫn có thể biết rằng cô ấy nãy giờ chỉ chú ý đến làn hơi bay ra từ chiếc chảo.

Tôi hé nắp chảo và chầm chậm mở ra, cảm giác như mình là một pháp sư vậy. Một lượng lớn hơi nước và hương thơm được nén chặt lại bên trong chảo lúc này thổi bùng ra như một vụ nổ nhỏ vậy, chất chứa tất cả những thứ sau: cái chua chua ngòn ngọt của cà chua, sự đậm đà của thịt, hương vị bất tận của nấm. Mùi hương cuộn trào như một cú đấm thẳng vào bụng lan tỏa khắp quán cà phê.

Cô nàng elf ngồi ở vị trí mọi khi nhìn về phía tôi, cái mũi của ông người lùn động đậy. Noltri thì vẫn ngủ.

Tôi lấp đầy cái đĩa với màu vàng sống động của pho mát nóng chảy, rồi sau đó là nước sốt ngập tràn hương vị.

Vừa nâng đĩa lên, tôi vừa chỉnh lại tư thế cho thẳng. Một người đầu bếp mang ra đồ ăn ngon mà dáng dấp không tự hào thì hỏng hết, thế nên tôi thẳng lưng, cẩn thận từng bước đến chỗ Albell.

“Đây, món Bít tết Hamburg hầm[note17263] với Cà chua và Nấm các loại. Chị xem này, cực kỳ tinh tế luôn.”

Albell không nói gì, chỉ nhìn đĩa bít tết hamburg trước mặt. Dường như ý đã quyết, cô cầm dao nĩa lên và với tay ra cắt một miếng.

Cô có vẻ ngạc nhiên trước độ mềm của thịt khi mũi dao và đầu nĩa chạm vào, dừng lại một lúc trước khi đưa miếng thịt lên miệng.

“... Ừ, ngon lắm.”

Đó là những từ duy nhất thì thầm thoát ra khỏi miệng của cô.

Thế rồi cô không nói gì nữa và chỉ ngồi ăn. Cô cắt từng mẩu nhỏ như muốn thưởng thức trọn vẹn từng miếng một, nhắm nghiền mắt với mỗi miếng cắn.

Chỉ cần thấy vậy thôi là tôi đã hoàn toàn thỏa mãn.

Tôi đã nấu cho một người và khiến người ấy phải chật vật tìm từ để diễn tả món ăn ngon đến thế nào. Tôi đứng ngắm Albell ngồi ăn và nụ cười trên môi của cô một lúc.

Thế rồi, tôi đi chuẩn bị món như mọi khi cho cô elf và ông người lùn. Tính đến giờ thì họ đã thực sự là khách quen rồi, thế nên mỗi người đều có một món tủ.

Cô elf sẽ có một đĩa hỗn hợp các loại hoa quả, một phần salad và một sandwich chay. Ông người lùn thì có một đĩa thịt nướng chín kỹ với thật nhiều gia vị mạnh. Noltri thì vẫn ngủ.

Khi tôi bê ra đĩa sandwich nướng, cô elf liếc mắt để ám chỉ về phía Albell và hỏi món đó còn không, cô chùng vai xuống khi nghe tôi bảo rằng đó là thịt, bởi vì cô không thể ăn được.

Khi tôi mang thịt nướng cay của ông người lùn ra, ông hất mũi và hỏi tương tự, nhưng liền càu nhàu khi nghe tôi bảo rằng nó rất mềm, rằng ông không thích ăn những thứ mà cắn không sướng miệng.

Lúc tôi trở lại quầy tiếp khách, Albell đã ăn hết thịt, cùng với cả bánh mì và salad.

“Tôi chưa bao giờ ăn món thịt nào lại mềm mại, đậm đà và thơm ngon đến vậy,” cô chân thành bộc lộ, nhìn phần sốt còn sót lại trong đĩa với vẻ tiếc nuối.

“Mừng là chị thích nó,” tôi nói và mang cái đĩa đi, nhận được một tiếng nghe thật thương tâm. Dĩ nhiên, tôi không định đổ nó đi, món ăn này vẫn còn một cấp độ nữa.

Tôi đổ lại phần sốt trên đĩa vào chảo và bật bếp. Khi nước sốt đã sôi, tôi cho vào một tảng bơ. Mùi vị của bơ rất đậm, thế nên thường thì nó sẽ át mất cái vị nguyên bản của thịt và hương vị mong manh của nấm, tuy nhiên lại rất hợp với phần thừa còn lại. Sau cùng, tôi nêm một ít muối lấy từ mê cung và đổ vào trong một cái đĩa sâu lòng, rồi đặt xuống trước mặt Albell cùng với một chiếc bánh mì.[note17262]

“Chị cho sốt lên bánh mì ăn thử xem, món đề nghị của em đấy.”

Cả khuôn mặt của cô liền hóa thành một nụ cười nữ tính, tôi lập tức phải lòng và nguyền rủa bản thân vì đã không chuẩn bị trước một cái nhẫn cưới. Nhìn ngắm Albell ăn trong hạnh phúc, tôi thấy hoàn toàn không hối hận trao cả căn bếp của mình cho cô ấy.

---------------------------------------------------------------------------

Đêm đã buông màn và quán trở nên yên ắng. Các quán bar vẫn mở vào buổi tối, dần được lấp đầy bởi những tiếng ồn của các mạo hiểm gia và người đi làm về. Tôi bắt đầu dọn dẹp trong quán cà phê lúc này đã vắng tanh.

Tôi hoàn thành việc lau dọn vừa đúng thời điểm hoàn hảo và lấy ra miếng bít tết hamburg cuối cùng trong tủ lạnh, bắt đầu chuẩn bị món hamburg hầm tùy biến. Nghĩ đến người mà sẽ ăn cùng với mình, tôi làm nhiều thêm một chút.

Tôi cứ thế mà nấu ăn trong khi lắng nghe những tiếng ồn vọng lại từ xa.

Vừa lúc tôi đậy nắp chảo để bên trong nhanh sôi, chuông cửa reo lên và tôi liền nhìn về phía đó, người mà tôi đang đợi đã đến.

“Linaria à, cậu vào đi,” tôi chào hỏi.

“Ừ, tớ đến bây giờ không sao chứ?”

“Tất nhiên rồi.”

Linaria đang mặc đồng phục, mái tóc đỏ tươi của cô được thắt đuôi ngựa. Cô kéo ra một chiếc ghế và thở dài. Đôi mắt đầy cương quyết hơi lim dim, khiến cô nhìn có vẻ kiệt sức.

“Trông cậu mệt mỏi nhỉ.”

“Ừ, sắp thi rồi. Ăn xong tớ cần phải vào thư viện học thêm tí nữa.”

“... Chăm thế.”

“Đúng vậy, tớ chăm lắm, có vấn đề gì không?”

Cô cười và hỏi, tôi bèn lắc đầu. Có mùi nguy hiểm ở đây, Linaria chắc chắn đã trở nên quá nhạy cảm do kỳ thi sắp tới.

Tôi pha một cốc cafe au lait thật ngọt trong khi nghe tiếng sôi sục của món hầm.

“Của cậu đây, hôm nay vất vả rồi. Nóng đấy, thế nên uống từ từ thôi.”

“Cảm ơn,” cô nói.

Tôi có thể nghe tiếng thổi phù phù của Linaria, tiếng sủi bọt của món hầm, và âm thanh huyên náo đằng xa của thị trấn. Tôi đang căng tai ra cố gắng tiếp nhận tất cả vào thì bật ra một tràng cười kỳ lạ.

“Tự nhiên cậu cười cái gì vậy?” Cô thắc mắc.

“Chỉ là tớ thấy hoài niệm thôi.”

“Hoài niệm? Hoài niệm cái gì cơ?”

“Không có gì đâu.”

Tôi cười lại với Linaria đang cau mày, rồi cho món bít tết hamburg hầm ra đĩa.

Tôi đặt nó xuống trước mặt cô ấy và liền nhận được một nụ cười. Đặt đồ ăn ngon xuống trước mặt ai đó luôn khiến người ta thư giãn, khiến họ phải mỉm cười. Bản thân ta thể hiện qua cái ta ăn, thế nên nếu thói quen ăn uống của ta mà thiếu cân bằng, nó sẽ gây ra ảnh hưởng xấu, ăn những thứ khó nuốt cũng sẽ không tốt cho cảm xúc của ta.

Tôi vừa làm một cái sandwich, vừa nhìn xem tâm trạng của Linaria được cải thiện, hoàn toàn thay đổi so với khi cô ấy vừa đến.

Cô ấy ăn xong đúng lúc tôi hoàn thành món sandwich và đặt nó vào hộp ăn trưa.

“Cảm ơn cậu, món này ngon lắm,” cô nói.

“Của cậu đây nhé, Linaria,” tôi nói, đặt cái hộp vào túi vải và đưa nó cho cô ấy, “ăn sau giờ trưa nhé.”

“... Cậu là bà vợ nội trợ đấy à?”

“Cậu có thể gọi tớ là mẹ nếu thích?”

“Còn lâu đi.”

Cô nhìn tôi chằm chằm, hẳn là đang suy nghĩ về niềm tự tôn phái nữ của mình.

“Vậy nhé, tớ về đây.”

“Ừ, đi đường cẩn thận.”

Linaria rời khỏi quán, bím tóc đuôi ngựa tung tăng theo sau.

Cô ấy đã ăn hết sạch. Salad và bánh mì cũng hết veo, chỉ còn lại trên đĩa vài vệt nước sốt. Tôi cầm đĩa lên và nhanh tay rửa nó. Đứng một mình trong quán cà phê vắng lặng, bỗng nhiên tôi nhớ về hình bóng phía sau của Linaria.

Bình luận (0)Facebook