• Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Chương 02: Mì spaghetti với Trái Ác quỷ

Độ dài 7,800 từ - Lần cập nhật cuối: 2021-11-28 18:54:13

Rang hạt cà phê là một trong những việc quan trọng nhất của tôi mỗi sáng.

Khi tôi mới nhập về, chúng vẫn còn tươi và không thể dùng để pha chế. Để khiến cho từ hạt pha ra được một tách cà phê ngon, chúng cần phải được nấu chín, hay nói cách khác là phải “rang” lên trước đã.

Tôi làm điều đó bằng cách cho hạt cà phê vào một cái lưới rang có nắp đậy và đưa lên bếp, thỉnh thoảng lại xóc đều lên để chắc chắn rằng không có chỗ nào bị quá nhiệt. Việc này rất mất thời gian và khiến cổ tay tôi trĩu nặng, một việc đòi hỏi nỗ lực về mặt thể chất. Bởi vì nhiệt độ sẽ ảnh hưởng tới độ đắng và hương vị của cà phê, thế nên tôi không thể rời mắt ra được.

Sau khi rang một lúc, hạt cà phê từ từ chuyển sang màu nâu cánh gián và bắt đầu nổ lách tách. Khoảng năm phút sau, chúng bắt đầu có mùi giống cà phê thực thụ và tỏa ra một làn khói mỏng.

Khi đã có thể nghe thấy tiếng hạt cà phê nứt ra, tôi biết là chúng đã được rang toàn bộ. Hơi quá chín so với tiêu chuẩn của tôi lúc tôi nhấc ra khỏi bếp và bắt đầu quạt. Nếu hạt cà phê không được làm mát nhanh, nhiệt độ còn sót lại bên trong sẽ khiến chúng bị rang cháy hơn nữa, thế nên chỉ khi không còn tí nhiệt lượng nào thì công việc của tôi mới hoàn thành.

Đặt chỗ hạt sang một bên, tôi chuyển sang dọn dẹp quán trong khi chờ chúng nguội hoàn toàn. Tôi quét sàn nhà, lau bàn và lau kính cửa sổ. Những công việc hàng ngày như vậy chẳng biết từ khi nào đã trở thành một thói quen của tôi.

Sau khi chỉnh trang lại đống bàn ghế, tôi đã sẵn sàng để bắt đầu một ngày làm việc, bèn ra chỗ cánh cửa ra vào để lật tấm bảng ghi “mở cửa” quay ra ngoài, trước khi trở vào bên trong.

Mặc dù tôi nói là “mở cửa”, nhưng sẽ mất một lúc chẳng có vị khách nào cả. Đây đâu phải một nhà hàng nổi tiếng hay gì, sẽ chẳng có một hàng dài người bên ngoài đứng đợi tôi mở cửa.

Trong lúc tâm trí đang dạo chơi, tiếng chuông treo trên cửa vang lên khiến tôi giật mình vội đứng dậy.

“Chào buổi sáng, tớ vào được chứ?” Cô gái hỏi.

“Ừ, chào buổi sáng, Linaria. Quán đã mở cửa rồi.”

Nghe tôi nói vậy, cô liền bước vào với một nụ cười thoáng trên môi.

Cô gái có mái tóc đỏ rực lấp lánh trong ánh nắng ban mai này là một trong những khách hàng quen của tôi, cô thường đến vào lúc quán mới mở cửa như thế này.

“Hôm nay cậu đến sớm thế,” tôi nói khi cô ngồi xuống quầy tiếp tân, khiến cô phải nhìn lại tôi và nghiêng đầu thắc mắc.

“Vậy ư? Tớ nghĩ thế là bình thường chứ.”

“Mặt trời chỉ vừa mới ló, vậy là bình thường à?”

“Ừ, không phải sao?”

Buổi sáng ở đây thường bắt đầu sớm, họ thường đi ngủ sớm vào buổi tối và thức dậy cùng lúc mặt trời mọc. Nơi đây có ít thứ để mà giải trí, không có TV, không có game, không máy tính kết nối mạng, cũng chẳng có điện thoại thông minh để dễ dàng liên lạc với bạn bè.

Đó là lý do mà mọi người lên giường sớm và thức dậy vào lúc tinh mơ. Nhưng dù vậy, cô ấy đến vừa đúng lúc tôi chuẩn bị xong xuôi và mở cửa thì chắc vẫn được tính là sớm chứ?

Tóc của Linaria khá dài, trông như thể sẽ tốn không ít thời gian và công sức để khiến nó gọn gàng sau khi mới ngủ dậy, và chắc chắn rằng buổi sáng của mọi cô gái không phải chỉ có mỗi chải tóc là xong. Bên cạnh đó, cô ấy sống trong ký túc xá của trường, và chỗ đó không hề gần quán cà phê của tôi. Với những lý do đó, tôi đi đến kết luận là cô ấy chắc hẳn đã dậy rất sớm.

Trong lúc những ý nghĩ ấy lởn vởn trong đầu tôi, mụ mị đi bởi vì dậy sớm, thì ấm nước đã sôi.

Tôi lấy ra một cái bình nhỏ chứa hạt cà phê từ trên giá và chuẩn bị bình syphon. Vừa lúc bắt đầu xay hạt cà phê thì Linaria quay sang tôi, vẫn chống cằm trên tay.

“Này,” cô gọi tôi giữa những tiếng lắc rắc.

“Có chuyện gì à?” tôi ân cần hỏi lại.

“Có mùi gì đó thơm lắm.”

Tôi vẫn vừa xay vừa trả lời, “À, tớ vừa mới rang ít hạt cà phê.”

Cô nghiêng đầu, làm mái tóc mềm mượt chảy trên vai, bắt trọn tia nắng chiếu xuyên qua ô cửa sổ.

“Sao cậu lại dùng hạt cũ? Chẳng phải hạt mới rang sẽ ngon hơn sao?”

Tiếng máy xay chậm lại.

“Cậu đừng có nhìn chằm chằm bất động như thế có được không?”

“À, tớ xin lỗi,” tôi nói và lại bắt đầu xay tiếp. “Đúng là mọi thứ thường sẽ ngon hơn khi còn tươi, nhưng cà phê thì không như vậy. Cậu không thể đơn giản nói cà phê tươi thì ngon hơn được.”

“Không đúng sao?”

Tôi nhìn cô ấy, không dám chắc cô có thực sự hứng thú với chủ đề này, nhưng rồi cô nhìn thẳng lại tôi, lắng nghe khi tôi vui vẻ tiếp tục nói.

“Hạt cà phê vừa rang xong có một thứ gì đó giống như khí ga ở bên trong, nó là dấu hiệu cho biết độ tươi ngon của hạt, nhưng lại không tốt cho việc pha cà phê. Nó ảnh hưởng đến độ hòa trộn giữa nước và cà phê. Nếu cậu sử dụng hạt mới rang, cậu sẽ có một mẻ cà phê với hương vị mơ hồ, bất ổn.

“... Hừm?”

Kinh nghiệm của tôi trong việc tiếp xúc với khách hàng cho phép tôi đoán được cảm xúc của người khác qua biểu hiện của họ, và kinh nghiệm ấy đang nói cho tôi biết rằng Linaria thực ra chẳng quan tâm lắm. Vừa chuẩn bị bình syphon, tôi vừa cười vui vẻ để cho qua chuyện đó.

“Về cơ bản, nếu hạt cà phê được để qua một vài ngày thì sẽ ngon hơn là dùng ngay khi vừa mới rang, thế nên bây giờ tớ đang dùng hạt của mấy hôm trước.”

“Nghe có vẻ như uống cà phê cũng tốn không ít công sức.”

“Đấy là cái hay của nó,” tôi nói vậy, nhưng dường như cô ấy không hiểu lắm, căn cứ vào cái cách cô nhìn lại tôi vẻ ngạc nhiên. Quả thực, phụ nữ không thể hiểu nổi thú vui của đàn ông cho dù là ở thời đại nào đi nữa.

Nước trong bình đã đạt độ sôi và đi vào trong cái phễu, dâng lên trộn lẫn với bột cà phê. Thấy vậy, tôi liền khuấy qua một lượt.

Thời gian có vẻ trôi chậm như rùa bò vào buổi sáng sớm. Tôi không bao giờ nghĩ rằng mình có lúc nào dậy sớm thế này trong quá khứ, tôi chưa từng thử và cũng chẳng phải một người thích dậy sớm. Nhưng giờ khi tôi đã quen với chuyện đó, tôi thấy nó cũng không tệ.

Không khí buổi sáng sớm trong lành và sạch sẽ, chẳng bị trộn lẫn với bất cứ thứ gì. Nó khiến tôi muốn làm một hơi đầy phổi. Thời gian trôi qua thật chậm, gần đến mức làm tôi cảm thấy như có thể với tay ra và xúc một nắm cát thời gian khi nó chảy qua.

Tôi nhỉn ra ngoài cửa sổ.

Mặt trời buổi sáng làm cho mặt đường phủ đầy những bóng đen khi mọi người đi lại ngang qua. Có những mạo hiểm gia đang tiến về phía mê cung, có những người đi mua hàng và những người đang bán hàng. Một khung cảnh buổi sáng mà tôi vốn đã quen từ lâu.

Bầu trời bên trên mang một màu xanh thuần khiết, tan chảy cùng với ánh nắng sớm nơi chân trời. Những đám mây trôi qua bầu không khí được chiếu sáng phần rìa, khiến cho chúng như được bao bọc bởi một quầng sáng trắng rực rỡ.

Tôi tắt lửa sau khi đã chắc chắn rằng cà phê đã pha xong, khiến cho nước bên trên chảy xuống cái bình hình cầu. Khi nhấc phễu ra, hương thơm êm dịu của cà phê mới pha len lỏi vào mũi tôi.

Ôi, tuyệt vời làm sao, thật tinh tế và xa hoa làm sao.

“Cái này làm tớ chợt nhớ ra,” Linaria nói, dường như vừa đột ngột nhớ ra điều gì đó trong lúc cô lơ đãng ngồi xem tôi pha cà phê, “cậu có nghe tin họ tìm thấy một loại trái cây mới không?”

“Một loại trái cây mới à?” Tôi hỏi trong lúc đổ cà phê ra cốc.

“Ừ, họ tìm thấy nó trong mê cung.”

“Có rất nhiều thứ đến từ cái mê cung đó, nhỉ?”

Đối với tôi, một kẻ lớn lên cùng game và manga, một cái mê cung nghĩa là có quái vật, kho báu và những cuộc phiêu lưu. Nhưng ở đây thì hơi khác một chút. Dĩ nhiên, dưới mê cung vẫn có quái vật, kho báu và phiêu lưu, nhưng quan trọng hơn là sự tiện lợi của nó. Những thứ có thể tìm thấy trong đó bao gồm các khoáng sản, gia vị, nguyên liệu, xương và da của quái vật. Nói cách khác, theo cách dễ hiểu nhất, thì cái mê cung đã khiến cuộc sống của cư dân chúng tôi tốt hơn nhiều.

Tôi rót sữa ấm vào đến khoảng nửa cốc cà phê, thêm vào một lượng lớn đường và đặt nó xuống trước Linaria.

“Cái gì vậy? Nhìn như nước bùn ấy.”

“Cậu có thể xem lại cách diễn tả của mình được không?” tôi hỏi lại.

Thực ra đúng vậy thật, cái màu tương đối đậm của cà phê và sữa trộn với nhau tạo thành màu nâu xỉn.

“Vì cậu nói cậu không thể uống được cà phê,” tôi nói tiếp, “nên tớ đã làm cho nó dễ uống hơn.”

“Tớ thực sự không thể hiểu nổi lại có người thích uống thứ đó.”

Cô ấy đã mất công đến đây rồi, thế nên tôi đã cố làm cô thấy được sự quyến rũ của cà phê. Tôi nghĩ ra nhiều cách pha chế khác nhau, thay đổi nó để làm cho dễ uống hơn, với sự hỗ trợ của sữa và đường… và bây giờ cuối cùng tôi đã có thành quả là đây.

“Tớ chắc chắn cậu sẽ uống được mà, có đến một nửa là sữa.”

“Cậu pha loãng nó với sữa để uống à? Cà phê đúng là kỳ lạ.”

“Cái này gọi là Cafe au Lait.”

“Cafayolay? Cái tên kì quặc này khó nói quá đi.”

Cafe au Lait là một món đồ uống thường được phục vụ ở Pháp. Họ muốn uống cà phê để tỉnh táo vào buổi sáng, nhưng uống cà phê đen vào sáng sớm sẽ gây ra đau bụng, do đó mà họ đã nghĩ ra cái ý tưởng có phần nhạt nhẽo là ‘thôi thì hãy pha loãng nó ra với sữa vậy’.

Linaria nhấp một ngụm và bất động, đôi mắt cô rung rinh lấp lánh khi nhìn vào thứ đồ uống mà cô vừa mới gọi là “nước bùn” cách đây không lâu.

“Không thể nào, nó ngon tuyệt.”

“Mặc dù là nước bùn ư?”

“Im đi, cậu đừng có xúc phạm cafayolay.”

Cô ấy đổi giọng nhanh đến chóng mặt, nhưng tôi thấy vui khi cô đã nói nó ngon tuyệt.

“Nhưng tớ vẫn muốn nó ngọt hơn chút nữa,” cô nói, lấy thêm đường từ cái bình nhỏ trên quầy và thêm vào cốc Cafe au Lait.

“Tớ sẽ ghi nhớ điều đó,” tôi trả lời.

Tôi nghĩ tôi đã làm nó rất ngọt rồi, nhưng rõ ràng là chưa đủ. Hoặc đúng hơn, tôi cho rằng người ở đây có xu hướng thích ăn đường.

Bàn tay Linaria đột ngột dừng lại sau khi dốc thêm đường.

“Chúng ta sử dụng đường thoải mái như vậy, nhưng thực ra nó là một thứ rất xa xỉ ở những nơi không có mê cung.”

Ra là vậy, tôi thầm nghĩ. Tôi vẫn luôn dễ dàng kiếm được đường, thế nên đã không nghĩ nó giá trị đến vậy.

“Cậu nói tớ mới nhớ ra, cả đường, muối và các gia vị khác đều đến từ mê cung, đúng là phi thường. Hay đáng ra tớ nên nói là cái sự thiếu nhất quán của nó thật sự đáng kinh ngạc.”

“Môi trường trong mê cung thay đổi theo mỗi tầng, thế nên sản vật từ đó cũng thay đổi theo. Toàn bộ cuộc sống của chúng ta được chu cấp bởi mê cung.”

Tôi gật đầu ra vẻ đã hiểu. Tôi đã từng nghĩ rằng mê cung giống như kiểu một cái túi phép thuật mà bạn có thể thò tay vào và lấy ra bất cứ thứ gì, nhưng có lẽ sự sống mà nó tạo ra đã được cư dân ở đây tiếp nhận giống như một món quà. Hoặc là cho dù có thể họ cũng nghĩ nó thật kỳ lạ, nhưng rồi họ đặt lợi ích thu được từ mê cung cao hơn những điều bí ẩn.

“Nó rất sâu, thế nên cũng có nhiều vấn đề phát sinh,” cô nói thêm.

“Vấn đề ư?” Tôi hỏi.

“Đúng vậy, những thứ được sản xuất ra ở các tầng sâu thì khó để mà vận chuyển ra, vì đường rất xa mà.”

“À, tớ hiểu. Ra là nó lớn đến vậy ư?”

Thực ra vấn đề đó là dĩ nhiên thôi, tôi không thể nói rằng cứ việc dùng xe tải hay gì đó tương tự là xong, họ có lẽ chỉ dùng sức người.

“Những người quan tâm với mê cung bây giờ bao gồm các nhà nghiên cứu, học viện và một số kẻ tò mò, họ cần kiểm tra xem những thứ được sinh ra ở các tầng sâu nhất có hữu dụng hay không trước tiên.”

“Vậy thì cái thứ trái cây mới mà cậu nói đến từ tầng sâu nhất à?”

Linaria lắc đầu.

“Chúng được hái ở khu rừng trong tầng thứ hai.”

À, ra là từ trong rừng, mà khoan đã?

“Có cả một khu rừng ở trong mê cung à?”

“Đúng vậy.”

Có thật sao…

“Eh, thế còn ánh sáng? Nếu tối quá thì thực vật đâu có mọc được, phải không?”

“Bên trong có ánh sáng mà?”

Đúng là có thật…

“Vậy còn nước và đất thì sao?”

“Có chứ”

Cũng có luôn…

Mê cung kiểu gì thế này, nó có là sản phẩm của tự nhiên không vậy? Thực ra, có quái vật sống bên trong nên dĩ nhiên là không phải rồi. Tất cả bởi vì đây là thế giới kỳ ảo, tôi chỉ hơi bối rối trước những điều này thôi, bởi vì chúng sẽ là phép màu trong thực tế.

“Loài cây mọc ra thứ quả kia vẫn luôn ở đó, nhưng nhìn chúng giống hệt quả Deres, thế nên không ai nghĩ rằng đó là một loại trái cây mới.”

“Quả Deres à?”

“Cậu biết đấy, cái quả mà…” cô nói, giơ ngón tay mảnh khảnh của mình lên, “... hay thấy ở trên núi, có màu đỏ, vàng hoặc xanh lá, nếu ăn phải thì sẽ bị cồn cào trong bụng một lúc ấy.”

“À, ra là nó,” tôi gật gật. Dĩ nhiên, tôi chẳng biết cô ấy đang nói về cái gì cả, nhưng căn cứ vào giọng cô thì đó là kiến thức phổ thông. Giả vờ hiểu người khác đang nói gì đôi khi là yếu tố quan trọng để giữ cuộc trò chuyện được trôi chảy.

“Nó có vị khá ngon, nhưng chắc chắn sẽ không tốt cho bụng dạ, thế nên được gọi là Trái Ác quỷ.”

“Giờ thì tớ nhớ ra rồi, nhờ nghe cái tên đó” tôi khẳng định, mặc dù chưa bao giờ thấy thứ đó. Nghe cái tên ‘Trái ác quỷ’ làm tôi có cảm giác không dễ chịu.

“Nhìn thì giống hệt quả Deres, nhưng đó lại là một loại mới, thế nên Guild và ‘Coven’ đang phải điều tra chúng”.

Tôi thắc mắc Coven là cái gì, nhưng dĩ nhiên không để lộ điều đó.

Khi buổi trưa đến, có vài vị khách kì lạ bước vào tìm bữa trưa. Không ai trong số họ gọi cà phê cả, thay vào đó, họ đến vì các món ăn của tôi.

Ở đây có rất nhiều nguyên liệu mà tôi không thân thuộc lắm, thế nên tôi đã nếm thử chúng. Một số có hương vị và hình dáng giống như nguyên liệu ở nhà. Do vậy mà các món ăn của tôi có hơi dị.

Đồ ăn tôi nấu trở thành những thứ mà người dân ở đây chưa từng thấy bao giờ, và cũng nhờ việc có thể nấu ra những món kì lạ mà tôi kiếm được vài vị khách thường xuyên lui tới, khi mà họ nghe được tin đồn từ ai đó.

Lúc tôi đang nói chuyện phiếm với người bán rau củ thỉnh thoảng lại tới thì chuông cửa reo lên. Tôi nhìn về hướng đó và thấy một người cao lớn mặc đồ đen sì đứng chắn trước cửa. Quần áo của người đó bó sát lên các múi cơ bên dưới, gây ra một ấn tượng độc đáo cho người khác. Thế rồi tôi nhìn lên và thấy khuôn mặt người đó hệt như chó sói, với cặp mắt màu hổ phách dò xét qua căn phòng một lượt trước khi chiếu thẳng vào tôi một cách đầy áp lực.

“Có phải chỗ này không? Cái chỗ nấu mấy món khác thường ấy?” Anh ta hỏi, bằng một chất giọng trầm và đe dọa. Người bán rau củ vội vàng chuồn ra khỏi chỗ đang đứng cạnh tôi.

“À… Vâng, đúng vậy ạ,” Tôi trả lời, lòng phát hoảng, gã người sói chỉ gật đầu một cái rồi quay đi.

“Thưa sếp, đúng chỗ này rồi ạ.”

“Được rồi.”

Tôi lắc đầu, thực tế không giống tưởng tượng tí nào.

Tôi chắc chắn đã nghe thấy một giọng nói trầm và kiểu cách, chất giọng mà sẽ khiến lồng ngực bạn rung lên. Thế nhưng đứng sau gã người sói lại chỉ là một chú thỏ hiền lành quen thuộc, với bộ lông trắng như tuyết, đôi tai dài rũ xuống cùng hai mắt màu đỏ. Dù tôi có nhìn kiểu gì đi nữa thì đó vẫn chắc chắn là một chú thỏ. Chú ta mặc một một complet màu đen sắc xảo, thắt cà vạt đỏ, đứng trên hai chân và chắp tay đằng sau lưng.

Hoàn toàn không để tâm đến tôi đang run sợ, thỏ và sói cùng bước đến bên quầy tiếp tân, chú thỏ mất hút sau cái quầy.

Gã sói dừng chân trước hàng ghế và đút tay vào trong túi áo, rút ra một cái ghế da nhỏ màu đỏ tươi. Chiếc ghế có phần viền vàng bọc quanh đệm ngồi và lưng, trang trí cũng bằng những sợi vàng được thêu lên. Hắn ta đặt chiếc ghế đó lên trên ghế của quán, và đột nhiên, tôi nhớ đến loại ghế cao dùng cho trẻ em trong các nhà hàng.

Chú thỏ nhảy lên và xuất hiện trên chiếc ghế đỏ, nhìn tôi với đôi mắt cỡ khuy áo.

“Cậu trẻ hơn là ta nghĩ,” chú nói, bằng thứ giọng mà tôi có thể cảm thấy nó từ tận đáy bụng dạ mình, cùng với những chuyển động chúm chím của cái miệng loài thỏ. Bạn đã bao giờ thấy một chú thỏ dễ thương nói chuyện bằng chất giọng của một quý ông thích uống rượu mạnh và hút xì gà chưa? Còn tôi thì có đấy, vừa mới thấy xong.

“Những lời đồn đại đã... bay tới tai ta dạo gần đây. Người ta đồn rằng có thể trải nghiệm những món ăn... mới mẻ và kì lạ ở nhà hàng này.”

“Dạ vâng, đúng thế, đúng là như vậy ạ,” tôi nói.

“Hiện giờ, thị trấn này là một trong những nơi có nhiều nguyên liệu nhất trên thế giới. Những đầu bếp và người sành ăn từ khắp các vùng đất đều đã tụ họp về nơi đây và đẩy xa thêm giới hạn của việc nấu ăn. Từ xưa đến nay, đàn ông chúng ta đã luôn bị ám ảnh bởi phụ nữ đẹp, rượu ngon và đồ ăn hảo hạng. Đồng ý chứ?”

“Chính xác ạ!” Gã sói trả lời câu hỏi vốn hướng vào tôi.

“Và giữa những thứ ham muốn ấy, ta đặc biệt hứng thú với đồ ăn ngon. Nếu đó là thứ ta chưa từng nếm qua thì càng tốt. Thế nên, mỗi lần ta nghe nói có thứ nguyên liệu mới được tìm thấy trong mê cung, ta sẽ đi kiếm nó ngay lập tức nếu được, và tìm một kẻ có thể nấu ra thứ gì đó ngon lành từ nó.”

Tôi nuốt nước bọt, một giọt mồ hôi khó chịu đang chảy thành dòng trên trán tôi. Bấy lâu nay tôi vẫn nghĩ mình có khả năng thấu hiểu tốt. Nhưng giờ đây, ngay lúc này đây, tôi lại thấy hối tiếc vì trực giác sắc bén của mình. Tôi có thể lờ mờ tưởng tượng ông ta định nói cái gì tiếp theo.

“Ta muốn cậu sử dụng một số nguyên liệu và nấu món gì đó. Nếu làm ta cảm thấy thích, ta sẽ cho cậu bất cứ phần thưởng nào cậu muốn. Tiền bạc, phụ nữ, bất cứ cái gì. Ta sẽ thỏa mãn ham muốn của cậu với toàn bộ khả năng của ta. Còn nếu như ta không thích món đó, ta sẽ chỉ đơn giản trả cậu số tiền công tối thiểu.”

Thật sự chỉ thế thôi sao? Ông không ném tôi cho tên sói đằng sau gặm đấy chứ?

Lờ đi biểu cảm cứng nhắc của tôi, ngài thỏ hất đôi tai của mình.

“Cậu nấu món gì đó ngon, ta sẽ ăn nó, và cậu sẽ được trả công tùy theo kết quả. Đơn giản, đúng không?”

Tôi đặt một bàn tay lên sau gáy. Những gì ông ta nói đúng là rất đơn giản, nhưng một cảm giác kì quái của sự mong đợi lại đang làm phiền tôi.

Những món ăn tôi làm ra quả thực là mới mẻ đối với thế giới này, nhưng tôi đâu phải một đầu bếp lành nghề gì cho cam. Tôi chỉ giúp đỡ trong quán cà phê của gia đình và có nhiều cơ hội để nấu ăn ở nhà thôi. Tôi không có đủ tự tin để nhận lấy thử thách này.

Ngài thỏ giơ bàn tay phải mềm mịn của mình lên, gã sói liền cho tay vào túi áo và lôi ra một thứ trái cây màu đỏ, vẫn còn gắn với cuống. Đếm sơ qua thì có khoảng mười trái như vậy, mỗi trái to cỡ nắm đấm. Tôi tự hỏi bằng cách nào mà ngần ấy thứ có thể vừa trong áo của gã.

Biểu cảm của gã sói không hề thay đổi, gã cầm cuống bằng một tay, còn mắt thì nhìn xuống tôi. Ngài thỏ đưa hai cánh tay ngắn một mẩu của mình lên trước mặt, xoay người để nhìn lên mặt tôi.

“Một vài ngày trước, loại quả này đã được phát hiện ra trong mê cung. Ta muốn cậu sử dụng chúng.”

Tôi không nói gì cả, khiến cho hơi thở của tên sói trở nên thô bạo, thổi bay cả tóc trên đầu tôi.

“Chúng khá tương đồng với một thứ trái cây được biết đến dưới cái tên Trái Ác quỷ, nhưng không phải cùng một loại. Chúng không có độc khi ta lấy mẫu thử, và vị của nó cũng không gây khó chịu.”

Tôi nhớ lại những điều đã nghe được từ Linaria. Thứ trước mặt tôi đây chắc chắn là loại nguyên liệu mới đang được kiểm nghiệm. Tôi có phần ngạc nhiên rằng ông ta dám ăn thử một thứ hoàn toàn mới có khả năng mang độc tính.

Khỉ thật, gã thỏ này đúng là dân chơi.

Còn một điều khác cũng làm tôi ngạc nhiên. Đó là… khỉ thật, dù nhìn thế nào đi nữa, thì cái Trái Ác quỷ này cũng chính là cà chua mà.

Chúng hơi dài một chút và phần chưa chín có màu vàng xanh, nhưng thứ quả này vẫn mang hình dáng của quả cà chua đỏ. Thực ra, nó đã khiến tôi rớt nước mắt. Mỗi lần nhìn thấy thứ gì đó gợi nhớ về nơi quê nhà trong cái thế giới không thể lý giải nổi này, tôi lại cảm thấy muốn khóc. Trước đây tôi không tài nào ngờ được sẽ có ngày mình rơi lệ vì mấy quả cà chua.

“Sao, thấy thế nào? Cậu làm được không?”

Tất nhiên, tôi gật đầu.

Vụ nấu ăn cho ông thỏ chẳng quan trọng. Tôi cũng không thèm chú ý tới gã sói, hay là nghĩ xem chuyện gì sẽ xảy ra nữa. Tôi chỉ muốn mấy quả cà chua đó thôi.

Tôi muốn chạm vào chúng, nhai chúng trong miệng. Tôi muốn ăn những món đã in sâu trong ký ức của mình, vậy thôi.

Sự chuẩn bị rất quan trọng đối với nấu ăn, có thể nói rằng hương vị được quyết định bởi khâu chuẩn bị,

Nguyên liệu đã được sơ chế, và thịt đã được băm nhỏ bởi con dao trong tay tôi. Việc chuẩn bị khá mất thời gian, thế nên ánh mắt của gã sói nãy giờ cứ nhìn tôi chòng chọc. Những sự chuẩn bị này vô cùng quan trọng, nhưng dường như gã không hiểu được điều đó.

Món ăn mà tôi đang làm rất đơn giản. Nó sử dụng ba loại rau củ được bán ngoài chợ. Một thứ tương tự như củ hành tây, một thứ hao hao cà rốt, và một thứ giống rau cần tây.

Tôi cho đống rau củ vào một cái nồi cứng và rót vào một lượng lớn dầu olive - mà thực ra chẳng rõ có phải làm từ quả olive hay không, ít nhất là từ thứ gì đó cùng loại, trước khi cho lên bếp và đậy vung. Độ dày của đáy nồi sẽ đảm bảo cho bên trong được chín đều. Như vậy nghĩa là sao? Nghĩa là làm cho nguyên liệu được chín từ từ, như vậy sẽ ngon hơn.

Thỉnh thoảng tôi lại mở vung ra và khuấy bằng một cái thìa gỗ cháy xém. Sau khoảng năm phút, rau củ đã mềm ra nhờ nhiệt lượng và độ ngọt của chúng đã được hòa trộn vào dầu ăn.

Lúc này, tôi bỏ vung ra và tăng nhiệt độ để loại bỏ phần nước còn thừa. Cái vung đủ nặng để khiến hơi nước không thể thoát ra khi đóng vào.

Sau khi đợi một lúc, đáy và thân nồi bắt đầu dính vào rau củ bên trong, rau củ đã bắt đầu hơi cháy xém. Mỗi khi chuyện đó xảy ra, tôi lại nhanh tay dùng cái thìa cạo ra và trộn đều mọi thứ với nhau.

Lặp lại như thế vài lần, rau củ cuối cùng đã chín, tôi tắt bếp đi và để nó nguội bớt.

Trong lúc đó, tôi bắt đầu chuẩn bị thịt băm.

Tôi lấy ra cái chảo rán bằng sắt vẫn hay dùng, múc một ít chất béo từ trong nồi cho vào chảo để có thể nấu thịt mà vẫn có hương vị của rau củ.

Khi chảo đã đủ nóng, tôi cho thịt vào, một lượng đủ để làm được một cái hamburger với kích cỡ bằng cái chảo.

Mùi của thịt được nướng chín là thứ mùi đã cướp đi con tim của vô số người, gã sói cũng không ngoại lệ, và tôi đã biết được cảm giác khi có kẻ nhìn như muốn đâm vào lưng mình. Với cái nhìn thèm thuồng của gã sói chằm chằm đằng sau, tôi đứng xem thịt trong chảo được nấu chín mà không động đậy gì hết.

Người đã dạy tôi nấu như thế này là ông tôi, ông cũng chỉ khoanh tay đứng xem như vậy. Khi tôi hỏi vì sao ông không đảo đều thịt lên, ông bình tĩnh trả lời:

“Nếu cháu trộn nó lên, nước thịt sẽ chảy ra. Chỉ cần giữ nhiệt độ thấp thì sẽ không bị cháy đâu.”

Đó là lý do mà tôi đang mô phỏng lại ông. Tôi ước gì ông đã dạy tôi nhiều hơn, nhưng dĩ nhiên, ông không có ở đây. Kiến thức nấu ăn của tôi vẫn mãi khiếm khuyết, tôi cảm thấy như vậy.

Trong lúc tôi im lặng ngắm nhìn, thịt đã chuyển sang màu nâu, tôi lật cả tảng thịt với cái thìa gỗ. Phần mặt trên đã được làm nóng trước, thế nên nó cũng biến thành màu nâu rất nhanh.

Tôi cho thịt ra ngoài và thêm rượu vang đỏ vào cái chảo lúc này đã rỗng. Đâu thể bỏ phí hương vị cùng nước thịt tiết ra trong chảo được. Tôi cứ để rượu sôi liu riu như vậy để loại bỏ hết chất cồn.

Sau đó, tôi đổ thịt băm cùng với rượu đun đã ngấm hương vị của thịt vào cái nồi rau củ.

Còn bây giờ, cuối cùng đã đến lượt ngôi sao của chúng ta.

Trái ác quỷ - những quả cà chua.

Tôi ăn thử một miếng lấy từ chỗ quả đã được sơ chế, vị của thứ này có chút hoang dã hơn so với cà chua tôi đã quen. Đúng hơn, tôi nên nói là nó có vị hơi chưa chín, thế nhưng mùi cà chua xộc lên vẫn khiến tôi ấn tượng. Giây phút tôi cắn vào, nước quả chua chua trào ra trong miệng, để lại một ít dư vị ngòn ngọt trên đầu lưỡi. Một sự thỏa mãn đáng kinh ngạc trong vòm miệng.

Tôi gần như đã rên lên trong sung sướng. Hương vị của nó thật mạnh mẽ và đậm đà. Tôi nghĩ rằng chỉ cần thái lát ra và thêm chút muối vào cũng đủ khiến nó ngon hơn là dùng cho cái kĩ năng nấu nướng nghèo nàn của tôi. Nhưng dù vậy, tôi vẫn chuẩn bị để nấu chúng.

Bởi vì tôi không chỉ muốn ăn cà chua, mà còn muốn nấu chúng lên và ăn những món hiện đại sử dụng cà chua nữa.

Thầm ra một lời đề nghị với mấy quả cà chua, tôi nghiền chúng trên chảo. Nước và thịt quả trào ra cùng với những hạt vàng ẩn bên trong, tất cả hòa trộn thành một hỗn hợp. Tôi lặp lại một lần nữa, rồi lại thêm một lần nữa.

Cuối cùng tôi thêm vào một số thảo mộc của thế giới này.

Ở đây chẳng có lai giống động thực vật để lấy thịt hay rau củ quả, thế nên chúng khá nặng mùi. Cư dân nơi này thì thấy ổn với điều đó, nhưng với tôi thì hơi khó ăn, do đó tôi thường sử dụng thảo mộc như thế này để loại bỏ những mùi nồng.

Tôi lấy ra một cái chai đựng bên trong thứ bột màu nâu nhạt từ chạn bát.

Tôi gọi cái này là consomme*[note14883] cho tiện, nhưng dĩ nhiên, nó hơi khác một chút. Nói một cách chuẩn xác, đây là bột nấu súp ăn liền được sử dụng bởi các mạo hiểm gia để uống nhanh trong mê cung. Sự tiện lợi của nó đã khiến thứ bột này gần đây rất được ưa chuộng bởi các bà nội trợ của thế giới này.

Kế tiếp, để món ăn có một hương vị dịu dàng hơn, tôi thêm vào một thìa nước sốt có tên là Solge.

Nó là một loại sốt đặc màu nâu nhạt, với một hương vị sắc nét đậm đà. Nước sốt có mùi đặc biệt mạnh, có lẽ hơi giống với garum*[note14884] , thứ được làm ra bằng cách ướp muối một lượng lớn cá.

Sốt solge cũng tương đối phổ biến trong thị trấn và được sử dụng cho gần như mọi thứ. Người ta có thể dễ dàng dùng nó để gia tăng độ mặn cho món ăn, hay là ăn kèm với bánh mì hoặc pasta. Nó thêm một lượng muối vào đồ ăn và rất hợp để dùng nhắm rượu, thế nên có thể nói là hoàn toàn phù hợp với một thị trấn đầy những mạo hiểm gia.

Tuy nhiên, cho dù là thứ sốt này hay là nước dùng dashi*[note14885] mà người Nhật cực kì ưa thích, chúng đều có thể nhấn chìm không thương tiếc những hương vị khác mỏng manh hơn, thế nên tôi không ưa chúng cho lắm. Món ăn ở thế giới này cái gì cũng đều có vị quá mạnh mẽ, thế nên tôi chỉ cho vào một lượng rất nhỏ.

Đã đến bước này rồi, giờ tôi chỉ còn một việc là cứ để ngâm như vậy.

Tôi rửa tay và dẹp những thứ đã sử dụng xong sang một bên, khiến cho gã sói thắc mắc.

“Xong rồi à?”

“Nó sẽ hoàn thành sau khi được ngâm trong một tiếng.”

“Một tiếng!?” gã kêu lên với một biểu cảm như kiểu vừa tỏ tình với một cô gái và cô ta nói rằng đã có bạn trai vậy, “Chỉ nấu ăn thôi mà cũng mất thời gian thế ư!?”

“Ông nói vậy chính xác là có ý gì hả? “Chỉ nấu ăn thôi” á? Đấy là còn chưa tính thêm thời gian tôi làm việc!” Tôi muốn hét lên như vậy, nhưng chỉ vội quay đi hướng khác. Nhìn thẳng vào mặt gã sói thì quá đáng sợ, tôi không thể chịu nổi.

“Cậu nói ‘chỉ nấu ăn thôi’ chính xác là có ý gì?”

Tôi cứ tưởng mình đã buột miệng nói ra thành tiếng, nhưng dĩ nhiên là không, bởi những lời đó được nói bằng chất giọng trầm của ngài thỏ.

“Nh-nhưng mà sếp ơi, thời gian quý báu của người-” hắn ta trả lời, trước khi bị chặn họng bởi cánh tay phải phủ đầy lông mịn của ngài thỏ giơ lên cao.

“Không sao cả, Scemotta. Nghệ thuật thì không tính thời gian.”

“V-Vâng, thưa sếp.”

“Nấu ăn cũng là một nghệ thuật.”

Tôi rùng mình trước cái sự thanh lịch ấy. Ngài thỏ này đúng là ngầu bá cháy.

Trong lúc tôi đang ngập tràn cảm xúc, gã sói bối rối không nói lên lời, thì ngài thỏ vẫn bình tĩnh ngồi khoanh tay.

Cứ thế, thời gian tiếp tục chạy.

Một giờ đã trôi qua.

Những thứ bên trong nồi đã hòa trộn với nhau, cá tính riêng của mỗi loại nguyên liệu đã cô đọng lại. Tôi bèn dùng một chiếc thìa để nếm thử.

Tính axit của cà chua và hương vị mạnh mẽ của thịt như bùng nổ trong miệng tôi. Cuối cùng được thanh tẩy bởi độ ngọt của rau củ cùng với hậu vị của súp consomme, rượu vang đỏ và các thành phần khác. Kết hợp tất cả những hương vị ấy lại với nhau là mùi thơm ngọt ngào của cà chua. Tôi đồ rằng việc phải sinh tồn trong mê cung đã đem lại một dấu ấn lên hương vị của nó.

Chỉ cần thêm một chút muối và hạt tiêu là phần sốt đã hoàn tất.

Giờ là lúc dành cho phần pasta mà tôi đã chuẩn bị trong lúc chờ đợi. Bình thường tôi chỉ việc mua ngoài hàng, nhưng ở thế giới này, rõ ràng tôi sẽ phải tự làm thủ công. Mì của tôi hơi phẳng, với một kết cấu vững chắc. Tôi định dùng chúng cho bữa tối của mình, nhưng thôi vậy.

Pasta nhanh chóng được luộc chín trong nước sôi. Tôi trộn nó với một dòng nước sốt nóng hổi và trình bày trên một cái đĩa, bào nhỏ một ít pho mát lên trên cùng và rắc lên chút thảo mộc có mùi vị hơi giống ngò tây để thêm màu sắc.

Và đây, cuối cùng thì món “Spaghetti Bolognese Phong cách Dị giới” của tôi đã hoàn tất.

Tôi đặt đĩa xuống trước mặt ngài thỏ, cái mũi nhỏ xíu của ông ta bắt đầu run rẩy.

Lúc tôi đang lo rằng liệu ông ta có thể sử dụng dĩa với kích cỡ dành cho người hay không, thì gã sói lấy ra một cái hộp từ trong túi áo và nhẹ nhàng đặt nó lên bàn, mở nắp hộp, để lộ ra thứ gì đó được bọc vải đen ở trong. Gã dùng đầu ngón tay lật tấm vải bọc lên, bên trong là một bộ dụng cụ ăn gồm có dao, nĩa và thìa. Chúng đều có kích cỡ tí hon và được chạm khắc rất tinh xảo ở phần cán.

Ngài thỏ lấy ra một chiếc khăn tay từ trong túi và trải nó ngang đùi, rồi chắp hai bàn tay nhỏ xíu lại để cầu nguyện gì đó, trước khi chọn một cái nĩa từ trong hộp.

Sau đó, ông ta quấn sợi mì quanh đầu nĩa. Do có kích cỡ tí hon nên nĩa chỉ đủ quấn một sợi. Mặc dù vậy, chỉ thế thôi cũng đủ đầy miệng cho một con thỏ. Ngài thỏ bắt đầu nhai, rồi xúc một chút thịt cùng với rau củ, theo sau là một tí cà chua, một ít nước sốt cùng với pasta.

Đó quả là một khoảng thời gian đầy áp lực. Tôi khá hài lòng khi đã có thể hồi tưởng lại quá khứ bằng việc nấu ra món này, nhưng giờ đây tôi đã nhớ ra vấn đề quan trọng là liệu ngài thỏ có thích nó hay không.

Liệu món mì của tôi sẽ được thế giới này chấp nhận chứ?

Mà trước tiên, không biết cho thỏ ăn thịt thì có sao không nhỉ?

Vô số ý nghĩ đang chạy trong đầu tôi, nhưng đều là nghĩ cho chuyện chưa tới. Ngài thỏ không hé răng nửa lời, chỉ ngồi lặng lẽ nhai. Mặt ông ta hầu như không có biểu hiện gì, ăn một cách gần như là tự động, thế nên tôi lại càng thêm lo lắng.

Ngài thỏ tiếp tục ăn, cái nĩa hoạt động không ngừng, và vẫn không nói gì cả. Gã sói nhìn ông ta với vẻ khó hiểu, và thậm chí những vị khách khác trong quán cũng liếc trộm chúng tôi.

“Ừm, món này… không hợp khẩu vị của ngài sao?” tôi hỏi, không thể chịu nổi sự im lặng nữa, thiếu đi phản hồi về món ăn khiến tim tôi bắt đầu đánh trống. Ngài thỏ dừng lại và nhìn tôi bằng con mắt đỏ rực.

u33701-f719beff-0597-4cfc-8daa-9e924b86e9b4.JPG

“Ta có thể cảm nhận được vị chua và độ ngọt. Không hề thấy những vấn đề thường gặp phải khi nấu rau củ, đến nỗi gần như là một loại rau củ khác hoàn toàn vậy. Bên cạnh đó là cái mùi thơm và hậu vị kì lạ của nó… Ta không biết là do dùng Trái Ác quỷ, hay là do kỹ năng nấu của cậu, nhưng hương vị của món này quả thực rất lạ.”

Một con thỏ gặp vấn đề khi ăn rau củ, tôi vừa nghĩ vậy, vừa thầm gật đầu đồng ý với cảm nhận của ông ta rằng món của tôi thật kì lạ. Tôi cũng cảm thấy y như vậy khi ăn đồ ăn của thế giới này. Phương pháp nấu, nguyên liệu và thậm chí là môi trường chúng sinh trưởng cũng đều khác biệt. Trên hết, khẩu vị của thế giới này và thế giới của tôi hoàn toàn chẳng hề giống nhau. Có thể sẽ có khác biệt lớn giữa những thứ tôi thấy ngon và những thứ người dân ở đây thấy ngon.

Nhìn thấy ngài thỏ có vẻ không thích cho lắm, vai tôi chùng xuống.

“Mặc dù vậy… nó ngon tuyệt,” ngài thỏ nói nhẹ nhàng, “Ta mới chỉ nếm thử mà không hiểu lắm về món này, nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, rất ngon. Mỗi một miếng đều khiến cho lưỡi ta, cơ thể ta và thậm chí là cả trái tim ta ngập tràn trong hương vị của nó, làm ta nhận ra một điều.”

Ông ta hít thở một hơi ngắn.

“Món ăn này vượt quá tầm hiểu biết của ta. Xuất sắc.”

Tôi thở phào nhẹ nhõm, những lo lắng trong lòng đã tan biến. Gã sói mở to mắt nhìn ngài thỏ và rồi lại quay sang tôi, cứ đảo qua đảo lại như vậy.

Ngài thỏ không hề bỏ lại dù chỉ một mảnh rau củ, ông ta ăn hết sạch cả đĩa. Đó là một vinh dự lớn đối với người đầu bếp khi khách hàng ăn như vậy.

Ngoài ra, tôi cũng hài lòng với số cà chua còn thừa, chúng quả là tuyệt nhất luôn.

“Vậy thì,” ngài thỏ nói, trao cho tôi một cái huy hiệu nhỏ bằng vàng. Nó có hình một chùm nho, cùng với phía trước là hình một con thỏ với đôi tai rủ xuống. “Đây là huy hiệu của gia tộc Corleone. Cậu có thể trưng nó ra khi gặp vấn đề gì đó trong thị trấn, hoặc khi muốn liên lạc với ta.”

“Sếp! Ngài không định đưa thằng nhóc này cái huy hiệu vàng đấy chứ!?”

“Lúc này ta đang có tâm trạng rất tốt, cẩn thận cái lưỡi của cậu,” ngài thỏ - nhân vật mang tên Corleone - nói, và giậm chân sau, khiến cho gã sói co rúm lại. Rõ ràng là gã sói khỏe hơn, thế nên tôi tự hỏi rằng chính xác thì mối quan hệ của họ là như thế nào, tuy nhiên tôi không có đủ dũng khí để hỏi.

Thế rồi, thỏ và sói rời khỏi quán cà phê.

Tôi bắt đầu dọn dẹp và lau quầy tiếp tân, trong khi đầu vẫn đang cố gắng xử lý cái chuyện vừa mới xảy ra, vừa lúc đó thì người bán rau củ tiếp cận tôi từ cái bàn mà nãy giờ anh ta ngồi lặng thinh quan sát.

“Yuu, cậu làm được rồi!”

“Anh nói thế là sao?” Tôi hỏi, lông mày co lại khi thấy anh ta vẫy vẫy tay trước mặt mình.

“Ý tôi là, đó chẳng phải gia tộc Corleone sao! C-cậu không biết à?”

Mặc dù phản ứng của anh ta như vậy, tôi thực sự không có chút hiểu biết nào về chuyện đó. Người bán rau củ lắc đầu vẻ không tin, bắt đầu nhiệt tình giảng giải.

“Họ điều khiển tất cả những con hẻm ở quanh vùng này đấy! Thậm chí cả quan chức cũng không dám bất cẩn đối với họ!”

“Hả,” tôi thở dốc, “họ là kẻ xấu ư?”

Có lẽ họ là mafia hay đại loại vậy. Người bán rau củ lắc đầu.

“Có rất nhiều vấn đề xảy ra trong các con hẻm, ví dụ như có những mạo hiểm gia quá tự tin vào sức mạnh của mình và gây rắc rối, tội phạm chạy đến đây từ những thị trấn khác, và ngoài ra còn vô số thứ nữa. Họ nổi tiếng với việc bắt giữ những kẻ như vậy và xử lý rắc rối, khiến cho thị trấn được an toàn.”

“Vậy thì họ là người tốt?”

“Nhưng mà, cậu biết đấy. Đã có nhiều cửa hàng bị hủy diệt và phải giải tán bởi vì sức ảnh hưởng của nhà Corleone. Họ quả là đáng sợ, nhỉ?” Anh ta nghiêm túc nói. Tôi thì không có ý niệm nào về những chuyện đáng sợ đó, nhưng chắc chỉ vì tôi chưa quen với thị trấn này thôi.

“Tôi nghe đồn ông trùm Corleone là một người sành ăn, không ngờ lại là sự thật,” anh ta nói thêm, “chuyện đáng kinh ngạc là ông ta đã công nhận nhà hàng của cậu! Đáng sợ, nhưng cũng đáng kinh ngạc!”

Anh ta đấm vào vai tôi, tâm trạng vui vẻ.

Bầu trời bên ngoài đã chuyển đen và tôi có thể nghe tiếng ồn từ phố chính. Trời càng tối, càng nhiều người tụ họp ở đây. Thị trấn lúc nào cũng nhộn nhịp này dường như không bao giờ có ngày nghỉ. Nó hơi ồn ào quá đối với tôi.

Quán của tôi vẫn luôn thiếu vắng khách hàng, nhưng điều đó lại làm tôi thấy thoải mái. Tôi vẫn lo lắng về chuyện vắng khách, nhưng rõ ràng tôi ưa bầu không khí yên tĩnh này.

Tối đó, Linaria ngồi một mình ở quầy tiếp khách. Cô thường đến đây trước và sau giờ học ở trường, và thường học bài luôn ở quán. Tôi thường im lặng để tránh làm phiền cô, nhưng khi cô nghỉ giải lao, tôi sẽ kể với cô những điều xảy ra trong ngày hôm đó. Ai cũng đều muốn nói chuyện về những thứ làm họ ngạc nhiên, những thứ họ thấy kỳ lạ hoặc những sự kiện bất thường.

“Gì cơ, Ông trùm Corleone đến đây á?” là phản ứng của cô sau màn độc thoại của tôi.

“À, vậy ra cậu có biết ông ấy.”

“Tất nhiên là tớ biết, ông ta quá nổi tiếng mà. Tội phạm rất sợ cái tên đó, bởi vì ông ấy không hề khoan nhượng.”

“Ông ta là người thế nào? Có đáng sợ không? Đáng tin cậy? Hay là một kiểu khác?”

Tôi không biết nên phản ứng ra sao sau khi đã gặp ông trùm, ông ta là một con thỏ trắng mềm mịn.

“Giờ cậu có thể yên tâm và để mọi chuyện cho ông ấy xử lý, phải không?” Linaria vui vẻ nói, trong khi vuốt vuốt vành cốc của mình bằng ngón trỏ. “Nếu ông ấy tới đây, tội phạm sẽ không bao giờ dám đụng vào cậu.”

“Thực ra bọn chúng cũng chẳng có lý do để làm thế.”

“Ừ thì, cũng đúng.”

Một khoảng lặng trôi qua trước khi Linaria lại gọi tôi, mặt cô quay sang từ phía cửa sổ để nhìn vào tôi.

“Cái món ông ấy thích có còn ít nào không?”

Tôi không nhịn được liền bật cười.

“Cậu chắc chắn muốn ăn chứ? Nhìn nó y hệt Trái Ác quỷ mà.”

“Nhưng ông ta thích nó.”

“Không sợ dính độc sao?”

“Tớ sẽ hét lên nếu có.”

Hét lên thì có tác dụng gì nhỉ? Tôi nghiêng đầu nghĩ, trước khi vứt chuyện đó qua một bên.

Linaria chỉ mới bắt đầu hay viếng thăm quán gần đây, nhưng tôi đã biết được khá nhiều điều mới mẻ về cô ấy. Ví dụ như, cô thích đồ ăn ngon, và ăn rất thường xuyên nữa, cùng với một số thứ khác.

“Sao hả? Có còn tí nào không?”

“Thực ra… vẫn còn đấy,” tôi nói, ra vẻ mình là người quan trọng, “tớ sẽ chuẩn bị nó ngay đây.”

Linaria nở một nụ cười có phần trẻ con.

Bình luận (0)Facebook