• Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Chương 01: Sandwich giăm bông và pho mát nướng, điểm thêm quả trứng luộc chậm

Độ dài 6,040 từ - Lần cập nhật cuối: 2021-11-28 18:54:12

“Ê này, Yuu, ta không muốn làm việc thêm một phút nào nữa đâu,” người nói là một ông già với cái đầu hói sáng bóng và chòm râu bạc phơ đang ngồi ở quầy tiếp khách. Hai cánh tay khoanh lại, mắt ông lóe lên một tia sắc bén và mặt ông tỏ vẻ nghiêm túc. Ánh mắt của ông chuyển sang phía cái cửa sổ nhìn ra đường phố, mà thông qua đó có thể thấy người đi đường qua lại. Bầu trời phản chiếu qua ô cửa sổ ấy cũng đã chuyển sang màu của buổi tối.

“Ta thực sự không muốn đi làm thêm một phút nào nữa….” ông lặp lại đầy quả quyết.

Tôi khẽ thở dài một hơi. Ông già này ngày nào cũng như vậy. Ông thường mò đến vào một thời điểm nào đó trong ngày, sáng, chiều hoặc tối, ngồi xuống, lảm nhảm về một thứ gì đó hoặc về người khác, rồi sau đó ra về.

Tôi gọi ông là già Gol. Tôi không biết ông làm nghề gì để sống, nhưng thứ quần áo nhìn giống kiểu Nhật Bản mà ông lúc nào cũng mặc dường như được may rất tốt, và ông trông có vẻ như phải mang một trọng trách nào đó.

“Ông lại trốn việc nữa đấy à?” tôi hỏi, đặt một chiếc đĩa sáng bóng trước mặt ông. Già Gol quay đầu lại nhìn tôi.

“Ta không có trốn,” ông tự bào chữa, “Ta chỉ đang nghỉ giải lao một lúc thôi.”

“Bây giờ đã gần hai tiếng trôi qua rồi đấy.”

“Ôi Chúa ơi, thật vậy ư? Mọi thứ quả thực cứ trôi vèo vèo khỏi tầm tay khi mà cậu đạt đến cái tuổi của ta…”

“Dù trông rất hợp nhưng ông có thể dừng ra vẻ già cả ốm yếu như vậy được không?”

Ông khục khặc cười một tràng nghe rất lạ tai, trước khi nằm áp má xuống bàn tiếp khách, thoải mái như ở nhà.

Một quán cà phê là nơi mà bạn thực sự đến để nghỉ ngơi một lúc, và rồi quên cả thời gian, thế nên tôi không nói gì thêm nữa. Thậm chí tôi còn thấy vui khi nơi này đủ ấm cúng để thư giãn như vậy, nó thể hiện rằng quán cà phê của tôi là một nơi thật thoải mái.

“Ta thấy cái quán này vẫn vắng tanh như mọi khi,” ông nói sau khi nhìn xung quanh. Ngoài già Gol đang ngồi ở quầy, chỉ có một người phụ nữ tộc elf đang đọc sách ở chiếc bàn kế bên cửa sổ. Tôi thích gọi đây là một khoảng lặng của việc kinh doanh hay gì đó đại loại, nhưng hình như nơi này lúc nào cũng vậy.

“Ta thực sự không tin rằng cái thứ cháu gọi là cà phê này đã đủ ngon, Yuu ạ,” ông nói thêm, nhấp một ngụm từ tách cà phê trước mặt và nhăn nhó, “Một hương vị rất ấn tượng.”

“Làm ơn hãy uống cà phê đúng cách, hãy cảm nhận cái vị đắng mạnh mẽ của nó.”

“Thứ này có mùi dễ chịu, nhưng nó đơn giản là quá đắng. Ta cũng hảo ngọt nữa.”

Nói đoạn, ông kéo một cái bình nhỏ màu trắng từ xa trên bàn tiếp khách và dốc một đống bột màu nâu trong bình vào tách.

Dĩ nhiên, không có gì tuyệt hơn việc khách hàng có thể hài lòng với đồ uống của mình, đó là điều quan trọng nhất, nhưng tôi không thể ngăn mình thở dài một cái khi thấy ông phủ kín tách cà phê của mình dưới những lớp đường.

Có rất nhiều thứ đã làm tôi kinh ngạc kể từ khi tôi đặt chân đến thế giới này, và một trong số đó là sự thiếu hụt văn hóa thưởng thức cà phê. Hạt cà phê có tồn tại, nhưng nó chẳng phải thứ vật phẩm quý giá gì - nó được sử dụng làm thuốc giúp gia tăng sự tỉnh táo.

Khi tôi mở quán cà phê này, tôi đã hoàn toàn mong đợi rằng thứ đồ uống mới mẻ của mình sẽ làm quán trở nên nổi tiếng, nhưng cái ý tưởng đó dường như còn ngọt ngào hơn cả cái đống đường trong tách của già Gol. Cà phê - một thứ đồ uống đen sì, đắng ngắt và kỳ lạ - chẳng được đón nhận cho lắm. Cư dân của thế giới này từ đầu đã không ưa những thứ có vị đắng, vì thế họ thường nghĩ nó là một loại độc dược gì đó, và hiếm có ai hiểu được chân giá trị tuyệt hảo của cà phê.

Và thế là, cái nhà hàng tự xưng “quán cà phê”, nơi phục vụ thứ đồ uống đen đắng gọi là “cà phê” này hiển nhiên có được danh tiếng chẳng mấy tốt đẹp.

“Àhh, chẳng có việc gì để làm cả,” già Gol nghiêm chỉnh nói trong khi nhìn vào những cái đèn treo trên trần nhà.

“Nếu ông không có việc gì, cháu nghĩ ông nên đi làm đi.”

“Cháu đang nói gì đấy? Ta đang tận hưởng cái sự không có gì để làm.”

“Vậy là ông không hy vọng có gì đó sẽ xảy ra bởi vì mình đang buồn chán ư?” Tôi hỏi, và ông trưng ra một nụ cười.

“Vào những lúc như thế, cháu phải tự tìm lấy “cái gì đó” ấy. Tìm kiếm thì sẽ nhanh hơn nhiều chờ đợi.”

Đúng là như vậy, tôi thầm nghĩ và gật đầu, nhưng số người đủ năng động để thực sự làm vậy thì khá là hiếm.

Già Gol lại ngân nga cái câu than thở chẳng có gì để làm của mình, trước khi một âm thanh cao vút vang lên. Đó là tiếng của cái chuông được gắn vào cửa giúp tôi dễ nhận biết hơn khi có một vị khách vừa tới.

Tôi nhìn ra phía đó và thấy một cô gái đang nhìn vào trong, khuôn mặt rụt rè đang liếc ra sau cánh cửa. Mái tóc đỏ của cô đung đưa khỏi vai, trong khi đôi mắt xanh quét quanh căn phòng. Đó là cô gái mà tôi đã gặp khi mở hàng vào sáng nay. Rõ ràng, cô đã không nói sẽ quay lại chỉ vì phép lịch sự, và tôi thì khá chắc đã không mong đợi cô xuất hiện trong cùng ngày hôm đó.

“Xin chào quý khách,” Tôi nói với cô ấy cùng một nụ cười.

“À, ừm, tớ đến lúc này không sao chứ?” Cô dè dặt hỏi. Tôi gật đầu và vẫy cô vào trong.

“Lúc nào cậu cũng được chào đón ở đây,” Tôi nói, “như cậu thấy đó, hôm nay quán cũng chẳng có nhiều khách lắm.”

“Cũng giống hôm qua và cả ngày trước đó nữa.”

Tôi lườm già Gol, còn ông ấy thì bắt đầu vô tư huýt sáo.

Dường như đã hài lòng rằng nơi đây đủ an toàn, cô gái chậm rãi tiến vào trong. Cô vẫn mặc đồng phục giống lúc sáng nay, mái tóc dài đỏ rực vẫn cột sau đầu, và cô đang mang một chiếc cặp học sinh khá lớn.

Cô không ngồi xuống một trong những chiếc bàn bên ngoài, thay vào đó bước đến quầy tiếp tân.

“Không thấy có khách nên tớ tưởng cậu đã đóng cửa mất rồi.”

“Đau lòng là vậy,” tôi nói. Nơi này quả thực rất vắng vẻ, có lẽ điều đó đã đuổi khách hàng mới đi mất.

“Cậu nói rằng đây là một quán cà phê, chứ không phải quán bar, phải không?”

“Đúng vậy, quý cô à, đây là một quán cà phê, và đặc sản của quán là cà phê,” già Gol nói với một cái nháy mắt, cùng lúc nâng cái tách của ông lên. Bối rối trước sự thân mật bất thình lình của ông, cô gái đáp lại bằng cái cúi đầu nhẹ, “Cháu thực ra chưa từng nghe tới quán cà phê hay cà phê bao giờ cả.”

“Ta hiểu, ta hiểu. Ta cũng lần đầu thấy nó ở đây. Nào nào, ngồi xuống đi.”

“À, cháu…” cô lên tiếng trước khi bị lấp miệng bởi ông lão.

“Chỉ một lúc thôi, một lúc thôi.”

Cô gái ngồi xuống ghế bên cạnh, tham gia cùng ông già lúc này đã tỉnh táo. Tôi tự hỏi mình có nên giúp cô hay không, nhưng rồi quyết định cứ để mọi thứ tự tiến triển thêm lúc nữa.

Tôi đặt một cái khăn ăn và một ly nước trước mặt cô gái, già Gol không bỏ lỡ một giây nào, nói:

“Yuu, một tách cà phê cho quý cô này nhé.”

“À, không, cháu…”

“Dĩ nhiên, ta sẽ trả tiền, cháu không cần phải lo. Đổi lại, ta có thể được biết tên của cháu không? Cháu có thể gọi ta là già Gol.”

“Cháu là Linaria ạ,” cô trả lời.

“Ah, Linaria! Ta tin rằng đó là tên của loài hoa mọc ở Cánh đồng tuyết Kamphius, biểu trưng của hy vọng và báo hiệu mùa xuân tới. Một cái tên rất hay. Cháu có đến từ vùng đó không?”

Tôi cúi xuống phía sau quầy và lấy ra một cái bình nhỏ màu trắng từ ngăn tủ. Trong bình đựng hạt cà phê. Tôi mở nắp máy xay cà phê và đổ vào một lượng hạt đủ cho một cốc. Sau đó, tôi nắm chặt cán cầm của máy và chầm chậm quay tay.

Tiếng lắc rắc giòn tan của những hạt cà phê đang được nghiền nhỏ lấp đầy căn phòng.

Xay cà phê như thế này thật tuyệt, việc nghiền nát những hạt cà phê thật là sảng khoái, nó khiến tôi quên hết mọi thứ trên đời.

Sau khi đã tận hưởng xong một cốc của sự sung sướng, tôi chuẩn bị bình syphon[note14882].

Đó là một bình chứa hình cầu làm từ thủy tinh gắn chặt vào một cái đế, bên dưới là mồi đốt dùng cho việc đun sôi. Bên trên là một cái phễu, hay một cái cốc thủy tinh với đường ống hẹp nối từ dưới đáy cốc vào bên trong cái bình hình cầu.

Đây là vật vốn được dùng bởi những dược sĩ và các nhà nghiên cứu, tôi đã chỉnh sửa lại nó để dùng với cà phê. Hóa ra cái bình này lại khá là xuất sắc trong việc pha cà phê, và nó đã gây cho tôi một ấn tượng nhất định.

Tôi đổ nước nóng từ một cái ấm bạc vào trong bình. Cái ấm đó là một vật dụng tuyệt vời, một sản phẩm sử dụng phép thuật, cho tới chừng nào mà những viên đá phép bên trong nó còn mana, nó sẽ giữ nước luôn luôn nóng.

Sau khi rót nước xong, tôi lau bình bằng một cái khăn khô. Nếu tôi bắt đầu đun mà vẫn còn nước bám bên ngoài, thủy tinh có thể sẽ bị vỡ. Ở thời đại này thì thủy tinh rất đắt, thế nên tôi tốt hơn hết nên cẩn thận.

Tôi châm lửa bên dưới cái bình chứa nước nóng. Tôi không biết cái ngòi đốt bên dưới có phép thuật tạo lửa hay chỉ là một viên đá phép sinh ra nhiệt, nhưng ở trung tâm của nó luôn sáng hồng lên và tỏa nhiệt.

Đây là một thế giới khác nơi mà phép thuật len lỏi vào mọi ngóc ngách của nền văn hóa, thế nhưng các sản phẩm phục vụ cho tiện nghi thì không quá khác biệt so với thế giới của tôi, điều này khá là thú vị. Tôi không biết nó dùng cái gì làm nguyên liệu, hay bằng cách nào nó được chế tạo ra, nhưng suy cho cùng thì “đun nước” hay “thắp lửa” cũng chẳng khác thế giới kia cho lắm.

Tôi có chèn một lớp vải lọc vào đáy của bộ lọc rồi để cà phê đã xay bên trên nó. Sau đó, tôi chờ cho nước sôi trước khi gắn chặt vòi nhỏ của cái phễu vào bên trong bình hình cầu.

“Wah…” Linaria bất giác kêu lên khi thấy nước sôi bên trong bình và bắt đầu chảy ngược lên cái phễu, “Thế này là sao? Phép thuật ư?”

Cô hỏi với một vẻ hoang mang, khiến tôi không thể nhịn cười.

“Này, đừng có cười,” cô cự nự, “vậy là không phải phép thuật?”

“Không phải,” tôi trấn an cô ấy, trong khi cà phê bắt đầu nổi lên trên mặt nước. Trước khi nước ngừng dâng lên, tôi dùng một cái thìa gỗ nhỏ khuấy một vòng xuyên qua lớp chất lỏng, trộn đều cà phê và nước để chúng hòa lẫn vào nhau.

Có ba lớp bên trong phễu, trên cùng là lớp bọt, ở giữa là lớp cà phê xay nổi lên, và cuối cùng là lớp nước trộn lẫn với tinh chất cà phê triết xuất ra. Từ trong đó bốc lên hơi nước nghi ngút và mùi thơm đậm đà của cà phê sôi sục. Chỉ cần ngửi hương cà phê thôi đã là một sự thỏa mãn, đem lại một giây phút an yên và bình lặng.

Tôi kiểm tra xem nước đã chảy hết sang phễu chưa và vặn nhỏ nhiệt độ lại một chút. Lượng nước ít ỏi còn sót lại trong bình sôi sùng sục.

Tôi đột ngột nhận ra rằng cuộc trò chuyện của hai người kia đã dừng lại và cả hai đang nhìn vào cái bình syphon. Biểu hiện của họ đều rất nghiêm túc đến nỗi tôi không thể nhịn nổi và bật cười.

Linaria lườm tôi qua khóe mắt.

“Xin lỗi, xin lỗi, tại hai người chăm chú vào nó quá, tôi không nhịn được.”

“Biết làm sao được,” cô trả lời với một cái bĩu môi, “đó là lần đầu tiên tớ nhìn thấy một thứ như vậy. Nếu không phải phép thuật, vậy thì tại sao nước lại chảy ngược lên trên chứ?”

“Ừm, là do nước sôi đã thay đổi áp suất bên trong, đại loại thế.”

“Áp suất? Đó là cái gì?”

Tôi khoanh tay lại và nhìn lên trần nhà.

“Đun nóng nước khiến cho hơi nước bên trong bình nở ra, thế nhưng không còn chỗ nào để chứa thêm, do vậy nên nó đẩy phần nước lỏng xuống.” Kiểm tra bên trong cái phễu, tôi tắt hẳn nhiệt đi và lại tiếp tục khuấy với cái thìa gỗ. “Khi cậu nhấc cái ngòi đun ra ngoài như thế này, hơi nước co lại và…”

Chỉ một lúc sau đó, cà phê bên trong phễu lại trôi xuống qua đường ống và chầm chậm chảy vào cái bình bên dưới.

“Wah, wah,” cô gái kinh ngạc thốt lên.

Ban đầu chỉ là nước nóng, nhưng giờ đây thì một thứ chất lỏng màu hổ phách đã lấp đầy cái bình hình cầu. Già Gol ngắm nhìn Linaria với một nụ cười dịu dàng, giống như ông đang nhìn cháu gái của mình vậy.

Cuối cùng, chỉ còn lại bã cà phê ở lại, nở phồng lên bởi nước nóng và bong bóng. Đây là bằng chứng của một cốc cà phê được pha chuẩn xác.

Tôi nhấc phễu ra và nhấc bình lên bằng cái cán vốn là một phần của đế, rót cà phê bên trong vào một cái cốc đang đợi sẵn. Hơi nước bốc lên từ bề mặt, và rồi hương thơm ngào ngạt của cà phê lấp đầy căn phòng, xông qua mũi và thấm vào tâm trí. Mùi cà phê cũng là một nguồn khác của khoái cảm, toàn bộ quá trình làm ra một tách cà phê thực sự là một niềm sung sướng.

“Nó thơm quá nhỉ,” Linaria nói, mê mẩn. Một nụ cười bất giác nở ra trên mặt, tôi đặt tách cà phê lên một cái đĩa trước khi để toàn bộ chúng ở trước mặt cô.

“Đây, một tách cà phê, pha chế bằng phương pháp nguyên bản của tớ.”

Cô cầm cái tách lên bằng cả hai tay và nhìn chăm chú vào mặt nước bên trong, giống như mọi người khi có một cục hắc diện thạch đang để trước mặt họ vậy.

“Cảm ơn,” cô nói, và nhấp một ngụm.

Đôi lông mày cô nhướn lên, mắt mở to. Thế rồi cô nhìn thẳng vào tôi, nhấc môi ra khỏi tách và ném cho tôi một cái nhìn trống rỗng có phần trẻ con.

“... Nó thật sự rất dở.”

Già Gol cười phá lên, còn tôi thì sụp xuống trong thất vọng.

u33701-811b6eed-25f4-4389-9e29-c6b8db7da5c2.JPG

Hai người họ cởi mở với nhau hơn tôi nghĩ, và cuộc trò chuyện diễn ra trôi chảy. Mà thực ra, chủ yếu là Già Gol khơi chuyện và Linaria trả lời. Nhờ đó, cuối cùng tôi lại biết được rất nhiều thứ về cô.

Ví dụ như cô có điểm số cao ở trường phép thuật, và là người đứng đầu cả khóa năm ngoái. Nhờ vậy mà cô đã bị đám học sinh con nhà quý tộc để ý tới, khiến cho khoảng thời gian ở học viện không được thoải mái với cô cho lắm. Tôi biết được rằng dạo này lớp ma thuật sư của họ đang thực tập trong mê cung, và biết cô thích uống trà đen để nguội một chút.

Thỉnh thoảng tôi có tham gia cuộc trò chuyện, nhưng phần lớn chỉ lắng nghe.

Cuối cùng, quang cảnh bên ngoài cửa sổ đã bắt đầu tối đi và tôi bước ra ngoài để thắp sáng biển hiệu. Đó là lúc tôi để ý thấy có người đang đứng ở góc mặt tiền cửa hàng. Người phụ nữ chào tôi với một cái cúi đầu nhẹ.

“Cảm ơn em đã phục vụ nhé,” chị nói với tôi.

“Ừm, chị đứng đây bao lâu rồi vậy?” Tôi hỏi.

Để đáp lại tôi, chị lấy ra từ trong túi một cái đồng hồ quả quýt và xem giờ, mái tóc bạc lắc lư trên cổ.

“Khoảng một tiếng, chị nghĩ thế.”

Như thế thì còn lâu hơn tôi nghĩ, thế nên tôi chẳng biết đáp sao. Chị ấy có thể đợi bên trong cơ mà. Thấy vẻ hoảng hốt của tôi, một tiếng cười bật ra từ đôi môi của chị.

“Ông ấy có vẻ như đang rất vui vẻ tận hưởng nhỉ,” người phụ nữ nói. Chị đang mặc một bộ áo giống complet với màu sắc đơn giản khoác bên ngoài áo sơ mi trắng tinh. Chị là thư ký riêng của Già Gol, và đến để bắt ông về mỗi lần ông trốn việc đi chơi.

“Quả đúng là vậy, nhưng ổng có nên ở đây đến tận giờ này không?”

“Phải thừa nhận là không, chị phải mang ông ấy quay trở lại sớm thôi.”

“Già Gol lại chạy đi khi đang dở việc nữa à?” Tôi khẽ hỏi chẳng vì lý do cụ thể nào, và chị ấy trả lời với cùng tông giọng như vậy.

“Ừ, ngay lúc nước sôi lửa bỏng, giờ chị sẽ phải ép ông ta làm việc cật lực.”

Mặc dù nhìn có vẻ như là kiểu một người đẹp lạnh lùng, nhưng đáng ngạc nhiên là chị ấy lại rất dễ gần.

“Chị thả ông ấy một lúc khá lâu rồi đấy.”

“Tối nay cũng không có nhiều việc lắm, và để cho ông ấy giải lao điều độ cũng rất quan trọng, bằng không thì một ngày nào đó có thể ổng sẽ thực sự chạy đi mất luôn. Đó là một phần rất quan trọng trong công việc của bọn chị.”

Không hổ danh là thư ký riêng của Già Gol, chị ấy biết cách để đối phó với ông, và tôi rất ấn tượng về điều đó.

“Để em vào lôi ông ấy ra nhé,” tôi đề nghị.

“Xin lỗi đã làm em mất thời gian vì vụ này nhé, cảm phiền em,” chị nói, lịch sự một cách đầy mẫu mực, quá lịch sự đến nỗi hóa ra lại làm tôi cảm thấy như chính tôi mới là người cần phải biết ơn. Chị ấy là một người phụ nữ cực kì xinh đẹp, thế nên mỗi lần nói chuyện với chị là tim tôi lại đập loạn lên, từ chị cũng tỏa ra mùi hương rất thơm nữa.

Tôi quay trở vào bên trong, ngầm tán thưởng những cô gái đẹp lớn tuổi hơn mình trong tâm trí. Già Gol đã đổ gục lên quầy tiếp tân, ngang nhiên giả vờ ho sù sụ. Linaria nhìn tôi hoảng hốt.

“N-nè, ông ấy…”

“Khụ, khụ… Cháu đừng lo, đây chỉ là một vết thương cũ thôi…” ông nói.

Và cái vết thương cũ đó là gì chứ?

“Ô-ông có sao không ạ?” Cô lo lắng hỏi. Già Gol ho còn mạnh hơn khi ông nhìn mặt cô.

“Xin lỗi, nhưng… cháu có thể gãi lưng cho ông không?”

“Lưng à? Ông muốn cháu gãi lưng cho ông?”

Đành chịu thua, Linaria giơ tay về phía cái lưng của ông lão, tôi nhanh tay đánh một phát vào sau gáy ông già mất nết. Ông ta chẳng còn tí tóc nào để đỡ lấy, thế nên âm thanh phát ra nghe sắc lẹm.

“Ááá!” Ổng kêu toáng lên.

“Thôi nào, làm ơn dừng cái màn diễn tệ hại của ông lại đi.”

Linaria bối rối nhìn vào hai chúng tôi. Già Gol bĩu môi, cọ cọ lên phía sau đầu và ra vẻ hờn dỗi.

“Ta đâu có còn nhiều thời gian trên đời này nữa, ta chỉ đơn giản muốn một vài kỷ niệm đẹp mà thôi.”

“Ông vui lòng kiềm chế những thứ đó trong quán cà phê của cháu, hoặc là quãng thời gian ngắn ngủi còn lại của ông sẽ còn ngắn hơn nữa đấy,” tôi nói với ông ta.

“Ồ? Cháu đang đe dọa ta đấy à?”

“Chỉ là ông tưởng tượng vậy thôi. Mà dù sao đi nữa, thư ký của ông đang đợi bên ngoài kìa,” tôi nói, nhận được một cái biểu cảm khiến tôi khó mà diễn tả thành lời từ ông, “đừng có làm cái mặt đó với cháu, nhanh nhanh quay lại làm việc đi.”

“Không… Ta sẽ ở lại đây… Ta sẽ chơi với Linaria…”

Với mỗi câu, ông lại bướng bỉnh đập một phát lên bàn tiếp tân. Tôi bèn chạy vào trong bếp và lấy ra một con dao chặt thịt, con dao to nhất mà tôi có với một cái lưỡi bự.

“À mà thôi, ta tự nhiên lại muốn làm việc! Đây không phải là dịp mà ta nên nhốt mình trong cái nhà hàng chật hẹp, buồn tẻ này!” Ông đổi tông giọng nhanh đến chóng mặt, vội vàng đứng dậy và chỉnh trang lại quần áo trước khi quay sang Linaria, “Cảm ơn vì hôm nay nhé, Linaria, ông già này đã được tận hưởng mấy tiếng đồng hồ thật tuyệt cùng với cháu. Ta sẽ trả tiền cho một bữa ăn của cháu thay cho lời cảm ơn, cứ gọi bất cứ món gì cháu thích, mặc dù chẳng có món nào trông ấn tượng.”

“Ông dám nói điều đó trước mặt cháu cơ đấy,” Tôi nói, xoay con dao để cho ánh sáng phản chiếu ra từ nó.

“Thật là kinh khủng! Ta sẽ đi khỏi đây trước khi bị tống xuống mồ. Tạm biệt, cậu trẻ Yuu, cứ tính hết vào hóa đơn của ta nhé.”

Bỏ lại Linaria, người há hốc miệng ngồi xem cuộc đối thoại của chúng tôi, Già Gol nhanh chóng rời đi.

“Ông ấy lúc nào cũng như vậy à?” Linaria ngập ngừng hỏi trong khi tôi đặt con dao về chỗ cũ và bắt đầu rửa đống cốc chén ông lão đã dùng.

“Lúc nào cũng vậy cả,” tôi gật đầu và thở dài, “ông ấy là một người kỳ lạ, tốt hơn hết là đừng nghĩ quá nhiều về chuyện đó.”

Cô nhìn về phía cánh cửa nơi Già Gol vừa đi qua mất một lúc, rồi cuối cùng quay trở về thực tại trong khi tôi đang rửa cốc. Dường như cô đã nhớ ra mục đích mình đến đây, bèn chỉnh trang lại tư thế và rút từ trong túi ra một cuốn sách bự. Cuốn sách có màu nâu sậm, trông như được bọc ngoài bằng da. Mặt trước có mấy ký tự kì lạ mà tôi chẳng thể đọc được, cùng với một hình vẽ mà không gì khác chính là một cái vòng tròn ma thuật. Nó quá phù hợp để làm một cuốn sách phép, thế nên khiến cho tôi có chút phấn khích.

Do ông già kia mà tôi đã quên béng đi, chứ mục đích Linaria đến đây là để tìm chỗ học bài. Giờ ông ấy đã đi rồi, bên trong trở nên khá yên tĩnh, chỉ nghe thấy lờ mờ tiếng ồn vọng vào từ con phố chính.

Đột nhiên, tôi nhớ về cái lễ hội mùa hè lúc tôi còn nhỏ.

Tôi biết bố mẹ mình đều rất bận, thế nên tôi đã không ích kỷ đòi được đi. Tôi có thể nghe thấy tiếng trống vọng vào cửa sổ, tiếng huyên náo của người đi chơi hội và âm thanh của những tràng pháo hoa. Đây đó là giọng của những người hàng xóm đang gọi nhau đi xem và cùng bước ra khỏi nhà. Lễ hội mùa hè của tôi là ngồi bên cửa sổ, căng tai ra và tưởng tượng mọi người đến và đi qua những âm thanh ấy.

Ở đây, hôm nào cũng giống cái lễ hội ngày xưa.

Thị trấn này được xây dựng xung quanh một mê cung và có vô số cư dân. Rất nhiều người đã đến với thị trấn. Có những mạo hiểm gia với tham vọng làm giàu thật nhanh từ mê cung, có những khách du lịch chợt đến và đi chỉ để chiêm ngưỡng cái mê cung đó, và còn cả những thương nhân tụ họp lại để bán cho khách du lịch. Bởi vì thế, con phố chính lúc nào cũng đầy những xe ngựa, quầy hàng xếp thành dãy, thắp sáng suốt đêm, và những người sống ở ven đường hẳn là khó ngủ ngon vì những tiếng ồn.

Vậy mà, quán cà phê của tôi lại yên tĩnh đến thế này.

Xét theo góc nhìn kinh doanh, đây không phải chuyện có thể đem ra cười, nhưng mà tôi không thể kìm nổi bản thân bật cười. Tôi có thể duy trì quán là nhờ sự ủng hộ lớn bất ngờ của Già Gol, nếu không có khoản đóng góp ấy, tôi đã sớm phải đóng cửa rồi.

Cô nàng elf vẫn đang ngồi bên cửa sổ với cuốn sách để mở, lơ đãng nhìn ra bên ngoài. Đường phố đã chìm trong bóng tối và cửa kính phản chiếu gương mặt cô. Nói là “như búp bê” thì nghe có vẻ nhàm chán, nhưng quả thực khuôn mặt cô quá hoàn hảo đến nỗi chẳng còn từ nào phù hợp hơn.

Linaria đang ngồi ở quầy tiếp tân, hoàn toàn chăm chú vào cuốn sách của mình. Lát sau, cô mở ra một cuộn giấy nhỏ và chốc chốc lại ghi chép cái gì đó lên bằng một vật dụng khá giống cây bút máy.

Rửa xong, tôi nhìn lên cái đồng hồ trên tường. Đây là thời điểm hoàn hảo để ăn tối. Tôi quyết định không làm phiền cô ấy và tự mình bắt đầu việc chuẩn bị nấu ăn.

Tôi bật cái bếp chạy bằng phép thuật và đặt lên một chiếc chảo nhỏ chứa nước nóng được rót ra từ ấm. Trong khi nó đang đun, tôi lấy ra một ít bánh mì từ trong tủ. Ổ bánh hình tròn, kích cỡ xấp xỉ khuôn mặt tôi. Bánh này tương đối khô, có màu hơi xỉn, và vị thì có chút chua nhẹ. Tôi cắt lấy hai lát bánh dày.

Tiếp theo, tôi lấy ra tảng pho mát cheddar và cũng cắt lấy hai lát dày. Sau đó, tôi chuẩn bị ít thịt nguội. Đó là một loại giăm bông gọi là prosciutto, vốn là phần bắp chân sau của con lợn và được ướp chỉ với muối. Cách làm và nguyên liệu vô cùng đơn giản, chỉ là xông khói thịt sau khi nó đã khô. Tất cả những gì bạn cần là thịt lợn, muối, thời gian, và nhiệt độ thích hợp, tuy đơn giản nhưng lại rất ngon.

Thực ra, tôi nói vậy chưa hẳn đúng. Tôi không dám chắc liệu thế giới này có con lợn hay không, dù là gia súc được chăn nuôi ở đâu đó hay lợn rừng săn được trong mê cung, hoặc có thể là một sinh vật khác hoàn toàn với thịt có vị giống thịt lợn.

Giăm bông có màu đỏ sẫm, ở viền ngoài có một lớp mỡ. Vị của nó vô cùng đậm đà, nhưng mùi thì lại chẳng có mấy. Tôi nghĩ nó hơi cứng hơn so với thịt lợn, thế nên sẽ xếp nó vào loại thịt lợn rừng.

Khi nước trong chảo đã sôi, tôi vặn nhỏ bếp và thêm vào chút nước lạnh để điều tiết nhiệt độ nước, trước khi nhẹ nhàng đặt vào trong một quả trứng.

Lần này, tôi bật cái bếp bên cạnh và đặt lên một chiếc chảo rán đáy phẳng bằng sắt, thêm vào chảo chút bơ khi nó đã đủ nóng và phết đều mặt chảo. Tôi đặt lát bánh mì lên chỗ bơ đã nóng chảy và lật ngược nó lại khi một mặt đã nướng xong, thêm pho mát và thịt nguội lên lên trên bánh mì trước khi đặt lát bánh còn lại ở trên cùng.

Thịt đã đủ mặn và pho mát thì có hương vị thật chín muồi, thế nên chẳng cần thêm gia vị gì nữa. Tất cả những gì bạn cần là giăm bông, pho mát, chút thời gian và dĩ nhiên là nhiệt độ thích hợp.

Tôi phủ lên chiếc bánh với một cái khăn sạch và dùng đáy của cái chảo nhỏ ép nó xuống. Dầu ăn bên dưới cái bánh cháy xèo xèo, như muốn chọc tức cái dạ dày của tôi. Tôi cứ giữ như vậy một lúc cho đến khi ngửi thấy mùi thơm của bột bánh mì, đó là dấu hiệu đã đến lúc lật bánh.

Tôi bỏ chiếc chảo đang ép từ trên xuống ra, lật tấm vải phủ khiến cho hương thơm bên trong bốc lên còn nhiều hơn nữa. Chiếc bánh đã được ép phẳng, từ phần nhân ở giữa rỉ ra pho mát màu vàng nhạt.

Tôi dùng một cái thìa gỗ lớn để lật bánh, nhìn thấy mặt bên dưới đã có một màu nâu vàng tuyệt đẹp, đủ đẹp để chụp ảnh đóng khung được rồi. Sau khi mặt còn lại đã được áp chảo đến cùng mức độ, chiếc bánh sandwich nóng hổi đã hoàn tất.

Tôi chuyển chiếc bánh sang một cái đĩa trước khi lấy ra quả trứng từ trong nước sôi và đặt lên trên cùng. Quả trứng đã được luộc từ từ đến khi hơi đông lại, nằm yên vị trên chiếc giường nâu. Đúng là tuyệt hảo. Tôi không thể không tán thưởng nó được.

Tay bưng tác phẩm của mình, tôi tiến thẳng đến chỗ Linaria. Tôi tưởng cô ấy vẫn đang tập trung vào bài vở, nhưng hóa ra cô đã nhìn sang phía tôi từ lúc nào và đang ngồi xem tôi nấu.

“Vừa đúng lúc nấu xong, xin mời thưởng thức,” tôi thông báo.

“Cái này cho tớ à? Cậu chắc chứ?”

“Tất nhiên rồi, tớ hy vọng cậu sẽ ăn nó. Nó ngon nhất là lúc vừa mới nấu xong đấy.”

Tôi đặt chiếc đĩa xuống trước mặt cô ấy, kèm theo đó là một bộ dao nĩa.

“Già Gol sẽ trả tiền, nên cứ ăn thoải mái đi.”

“Cảm ơn nhé. Tớ đang đói. Nhưng mà… đây là món gì vậy?” Cô nghiêng đầu hỏi tôi.

“Nó là bánh sandwich pho mát và giăm bông nướng, trang trí với một quả trứng luộc chậm.”

“Sandwich nướng?”

“Cứ ăn đi là cậu sẽ hiểu thôi,” Tôi nói trước khi quay trở lại chỗ rửa bát. Tôi rất muốn ngồi xem cô ấy ăn nó và hỏi xem cô nghĩ gì về hương vị, cũng như có còn điểm nào chưa được không, nhưng rồi dĩ nhiên là tôi đã không làm thế, tôi chỉ liếc nhìn từ xa thôi.

Linaria cầm dao và nĩa trong tay, hình như cô đang không chắc nên ăn cái món mới toanh trước mặt mình như thế nào. Mặc dù vậy, cô vẫn chậm rãi bắt đầu, mắt lấp lánh. Giây phút lưỡi dao đâm vào chiếc sandwich, pho mát nóng chảy bên trong trào ra như nham thạch. Những sợi pho mát dày có thể làm bất cứ ai cảm thấy thích thú.

Cô dùng nĩa đưa một mảnh sandwich lên miệng và cắn một miếng, biểu cảm trên khuôn mặt cô nở rộ thành một nụ cười, chỉ cần thế thôi là đã đủ làm tôi thỏa mãn rồi.

Tôi vừa lau dọn, vừa ngân nga một điệu nhạc, đúng lúc ấy thì cô nàng elf vẫy tôi lại gần.

Tôi rời khỏi quầy tiếp khách và bước đến bên cạnh trong lúc cô nhìn tôi với vẻ vô tư lự. Mái tóc dài của cô ấy rủ xuống trên đôi tai, trông gợi dục một cách kỳ lạ.

“Cái đó,” cô nói, chỉ vào Linaria. Đây là lần đầu tiên tôi nghe giọng cô, và đã sững sờ bởi chất giọng trong trẻo ấy, nó khiến tôi nghĩ rằng cô thực sự đến từ một xứ sở thần tiên.

“À, bánh sandwich nướng ư? Cô có muốn tôi làm cho một đĩa không?”

“Nó… có thịt chứ?” Cô chậm rãi hỏi.

“Có ạ, thịt chân giò hun khói.”

Cô từ từ lắc đầu.

“Tôi… không thể ăn thịt.”

Biểu cảm trên mặt cô hầu như không đổi, thế nhưng vẫn có một tia buồn bã trong ánh mắt cô khiến tim tôi thắt lại. Làm sao tôi lại khiến cho một mỹ nhân thế này phải buồn chứ!

“Cô ổn với việc chỉ có trứng và pho mát chứ ạ?” Tôi vội hỏi, kèm theo cái gật đầu, “Nếu được thì tôi sẽ làm cho cô một cái không có thịt.”

“Được.” Cô gật đầu, nom giống như một đứa trẻ háo hức được người lớn cho kẹo, tôi không nén được bèn bật cười.

Lát sau, Linaria quay trở lại với việc học.

Cô nàng elf lúc nãy đã đi mất sau khi ăn xong đĩa sandwich với trứng lòng đào được tùy biến riêng, giờ chỉ còn lại hai người chúng tôi trong quán.

Sau khi tôi đã rửa bát đĩa xong, Linaria cũng đã nhét hết đồ vào túi và đứng dậy.

“Ký túc xá có giờ giới nghiêm, tớ phải đi đây.”

“Ừm, cảm ơn cậu đã đến đây hôm nay.”

Cô gật đầu, và im lặng mất một lúc, dường như định nói gì đó. Tôi không nói gì hết và kiên nhẫn chờ đợi.

“Này,” cô mở miệng, hơi né tránh ánh mắt của tôi, đôi mắt xanh sẫm của cô lấp lánh trong ánh đèn, “các thứ ở đây có đắt không vậy?”

Nói “các thứ” thì hẳn là lấy cà phê làm cơ bản.

“Cà phê thì hơi đắt, còn lại thì menu của quán cũng bình thường thôi,” tôi trả lời.

Linaria trông có vẻ đã nhẹ nhõm hơn.

“Tớ có thể đến đây nữa chứ? Mặc dù tớ không có nhiều tiền đâu.”

“Tất nhiên rồi, lúc nào cậu cũng được chào đón,” Tôi nói, và dùng cả hai tay ra dấu bao trùm quán cà phê, “như cậu thấy đấy, chỗ này lúc nào cũng ngóng chờ khách hàng.”

“Ừ, thế thì tốt quá,” cô khúc khích cười, và tôi cười đáp lại.

“Cậu được chào đón ở đây bất kì lúc nào, cho dù chỉ gọi một cốc nước trắng.”

“Tớ chắc chắn sẽ yêu cầu thứ gì đó, tớ muốn ăn thêm những món giống như hồi nãy,” cô nói, nhấc túi xách lên, “À, tớ vẫn chưa tự giới thiệu, phải không nhỉ? Tớ tên là Linaria, Linaria Leafont. Tớ có thể biết tên cậu là gì không?”

“Tớ là Yuu, Yuu Kurosawa. Rất vui được gặp cậu.”

“Ừ, tớ cũng vậy.”

Sau câu tạm biệt cuối cùng, cô rời đi qua cửa chính, theo sau là tiếng chuông ngân trước khi quán cà phê lại chìm vào im lặng và đột ngột trở nên lạnh lẽo.

Một quán cà phê chẳng có ai bên trong vì lý do gì đấy thiếu đi sự ấm áp.

Ngân nga một điệu nhạc vô nghĩa, tôi bắt đầu đóng cửa quán.

Bình luận (0)Facebook