Lord of Mysteries
Ái Tiềm Thủy Đích Ô Tặc
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Chương 02: "Nhà Bói Toán" Khuyên Nhủ

Độ dài 7,029 từ - Lần cập nhật cuối: 2022-08-16 11:32:08

Translator: Azi dakaha - Editor: Kouji

✫ ✫ ✫

Klein dành thời gian dùng một chiếc bàn chải nhỏ và khăn tay để tỉ mỉ lau chùi bộ vest cùng chiếc mũ. Tiếp đó, anh thay áo sơ mi trắng để giặt bằng chiếc áo vải lanh đồng kiểu với chiếc áo khoác rẻ tiền trông có vẻ tươm tất nhất của mình rồi mới rời nhà.

“Mình còn phải mua váy cho Melissa và lễ phục cho Benson đã, chuyện mua thêm bộ khác cho bản thân thì để sau đi. Tiền bao giờ cũng thiếu… Còn phải tiết kiệm để sắm bộ đồ ăn bằng sứ cho khách, rồi mua mấy cái nguyên liệu thần bí học nữa chứ…” Klein bắt xe ngựa công cộng, nhẩm lại vấn đề tài chính gia đình. Càng tính, anh càng lắc đầu.

Theo ước tính, phải mất ít nhất một năm nữa thì anh em họ mới có thể sống như một gia đình trung lưu. Tất nhiên là chưa xét đến tình huống Klein được thăng chức, thăng lương.

Cỗ xe băng qua các con phố, dừng lại ở đối diện Câu lạc bộ Bói toán trên đường Howes.

Klein giữ chiếc mũ chóp cao phi lụa, nhảy bước xuống xe. Anh men theo lối đi quen thuộc dẫn đến câu lạc bộ trên tầng hai tòa nhà. Đón tiếp anh vẫn là cô gái có mái tóc nâu xinh đẹp Angelica.

Vành mắt cô hơi sưng đỏ, nhưng cả người trông rất thư thái.

Klein vươn tay gõ nhẹ lên trán, cẩn thận kiểm tra. Anh phát hiện màu xám đen trong cảm xúc của Angelica đã biến mất, thế vào đó là một ít sắc trắng như nắng mặt trời.

Xem xong, anh bước đến, cởi mũ và mỉm cười: “Cô Angelica, hôm nay quả là một ngày nắng đẹp đúng không?”

Angelica ngẩng đầu, khẽ thốt lên một tiếng kêu kinh ngạc trước khi nở cười đáp: “Anh giống hệt con mèo của ông Vincent ấy, đi mà không phát ra âm thanh nào cả. Đúng vậy, anh nhìn ra rồi sao? Hì, tôi quên mất anh là một thầy bói giỏi xem tướng.”

Cô ngừng lại, mím môi rồi cúi người: “Cảm ơn anh vì những lời khuyên hôm qua. Tôi cảm thấy khá hơn rồi. Suốt một năm nay, tôi chưa bao giờ được thoải mái, vui vẻ và thỏa mãn như bây giờ.”

Lời cảm ơn chân thành từ cô gái khiến Klein cũng cảm thấy vui lây. Khóe môi anh vểnh lên, nói: “Tôi rất vui khi được nghe điều đó.”

Vào khoảnh khắc này, anh cảm Linh Tính bản thân trở nên nhẹ nhõm và sinh động hơn hẳn.

Đây chính là “Nhà Bói Toán” mà Ma Dược yêu cầu? Một “Nhà Bói Toán” có thể trợ giúp người đang cần xin ý kiến? Klein nhéo trán như thể suy tư và lặng lẽ gõ hai lần.

Không thể không nói, động tác đóng mở Linh Thị này không đủ bí mật. Vấn đề là anh vẫn chưa nghĩ ra được biện pháp nào tốt hơn. Rốt cuộc anh mới trở thành “Nhà Bói Toán” không lâu, Linh Tính và khả năng làm chủ bản thân chưa phát triển đến cực hạn. Bởi lẽ đó, anh nhất định phải chọn vị trí có khả năng kích thích Linh Tính hữu hiệu để làm ‘công tắc’. Song vị trí phù hợp lại không có nhiều, ấn đường vẫn là lựa chọn tương đối ưu việt.

“Chờ đến khi tiêu hóa hết Ma Dược và trở thành “Nhà Bói Toán” đúng nghĩa, hẳn mình sẽ có khả năng thiết kế một công tắc kín đáo hơn.” Klein thầm gật gù khi bước về phía phòng hội nghị.

“Anh muốn dùng cà phê hay trà đen?” Angelica vội hỏi.

“Cà phê Desi.” Klein quyết định thử hết các loại đồ uống ở đây.

Trong phòng đã có sáu, bảy người tụ tập. Nhưng người luôn có mặt ở nơi này là Hanass Vincent lại không thấy đâu.

“Ông Vincent không đến sao?” Klein dừng bước, thuận miệng nói.

Angelica giật mình đáp: “Không phải hôm nào ông Vincent cũng đến. Theo tôi biết thì ông ấy vừa nhận làm giảng viên khách mời cho một tổ chức bói toán tại cảng Enmat rồi. Anh có chuyện cần tìm ông ấy sao?”

“Không, tôi chỉ tò mò thôi. Tại lần nào tới đây tôi cũng gặp ông ấy mà.” Klein lắc đầu.

Đồng thời, anh phát hiện ra một gương mặt quen thuộc trong số bảy người có mặt: Glacis, người mà anh từng xem bói cũng ở đây! Lúc này, Glacis đang đeo một chiếc kính đơn một mắt và theo dõi thông tin trên bàn. Nhận thấy được có ai đó đang nhìn mình, anh ngước lên.

Khi lần theo tầm mắt, sự vui sướng bừng sáng trên mặt Glacis. Anh dùng hai tay chống xuống bàn, đứng dậy, vọt tới trước Klein: “Chào buổi chiều, anh Moretti. Tôi còn đang nghĩ liệu hôm nay anh có tới không đây. Nghe Angelica nói anh không phải là bác sĩ, mà là một thầy bói chuyên xem tướng?”

Klein khẽ cười: “Tôi không chỉ giỏi mỗi cái đó đâu. Anh Glacis, có vẻ anh đã khỏe hẳn rồi nhỉ?”

Với Linh Thị, Klein nhận ra màu sắc sức khỏe của anh ta đã trở lại bình thường.

“Đúng vậy, tôi thực sự hối hận vì đã không nghe lời khuyên của anh. May mà tôi có một hàng xóm rất giỏi chế thuốc. Ông ấy đã cho vợ tôi một loại thuốc thần kỳ, giúp tôi thoát khỏi cái chết.” Glacis kể, giọng bùi ngùi.

Là một nhân viên không chính thức trong hàng ngũ Kẻ Gác Đêm, Klein hỏi ngược lại với sự nhạy cảm nghề nghiệp: “Một người giỏi bào chế thuốc? Một loại thuốc thần kỳ?” Thần kỳ? Thần kỳ đến mức nào? Phải chăng đã đạt đến ngưỡng siêu nhiên?

“Ông ấy nói đây là một loại thuốc dân gian ở Lenburg. Tóm lại là nó có tác dụng lớn đối với bệnh của tôi.” Glacis trả lời, không nhận thấy có gì bất thường nào.

Một thầy lang dân gian? Klein gõ trán hai lần, làm bộ suy nghĩ: “Tên thầy lang đó là gì? Ở đâu? Anh biết đấy, một thầy bói cũng không thể chắc chắn mình sẽ không bị bệnh. Có lẽ tôi sẽ đến chỗ người đó để mua thuốc trong tương lai.”

Thông qua giảng viên và đồng học, Klein biết rằng hệ thống y tế trên thế giới hiện nay mới được hình thành. Rất nhiều tật bệnh còn chưa tìm ra được cách chữa trị. Cho nên những loại thuốc thần kỳ và thầy lang giỏi vẫn rất phổ biến. Mà dù sao, biết nhiều hơn cũng không có hại gì, có khi sau này sẽ cần đến.

Glacis thành thật trả lời: “Ông ấy là Lawson Darkwave, có một cửa hiệu nhỏ trên đường 18 Vlad tại khu Đông, gọi là ‘Tiệm thảo dược dân gian Lawson’.”

“Cảm ơn.” Klein ghi nhớ và chân thành cảm tạ.

Glacis dẫn Klein đến chỗ ngồi ban đầu của anh ta. Lúc này, Angelica mang tới cốc cà phê vừa pha xong.

Cà phê Desi thơm hơn cà phê Southville, có điều mùi vị lại khá tệ. Klein nhấp một ngụm, thưởng thức trong chốc lát.

Khi Klein đặt cốc sứ tráng men trắng xuống, Glacis nhanh chóng nói với vẻ châm chước: “Anh Moretti, tôi có thể nhờ anh bói giùm tôi một lần được không? Tôi sẽ trả theo giá anh đưa.”

“8 Penny là được. Tạm thời tôi sẽ không nâng giá.” Klein đang hy vọng có người tìm mình xem bói, liền đáp: “Anh có cần vào phòng bói toán không?” 

“Tốt quá, vậy chúng ta hãy đến phòng Thạch anh vàng nhé.” Glacis, người quen thuộc chỗ này hơn Klein bèn dẫn đường.

Họ vào phòng, khóa chặt cửa. Klein ngồi xuống phía sau bàn dài, nghiêm túc hỏi: “Anh Glacis, anh muốn bói về việc gì?”

“Tôi có một cơ hội đầu tư. Nhưng nó yêu cầu rất nhiều tiền. Nếu thua lỗ, tôi cùng gia đình sẽ phải gánh chịu hậu quả nghiêm trọng, nên muốn xem cuộc đầu tư lần này có thành công hay không.” Glacis nói thêm, “Lúc trước, tôi từng dùng bài Tarot để tự bói. Tất nhiên là thanh lọc tâm hồn xong mới xem bói. Kết quả khá tốt. Ừm, cái đó là tôi tự diễn giải ra. Nhưng tôi không vi phạm những nguyên tắc về biểu tượng đâu.”

Klein cân nhắc hỏi, giọng tò mò: “Anh có thể miêu tả chi tiết sự việc kia và đưa thông tin bản thân cho tôi một lần nữa được chứ? Nếu có thông tin về đối phương thì càng tốt. Chúng ta sẽ xem bói bằng bản đồ sao.”

“Vâng.” Glacis sắp xếp ngôn từ rồi bảo: “Khi tiến hành khảo sát dãy núi Hornacis, ông Lanevus đã phát hiện một mỏ sắt chất lượng cao có trữ lượng dồi dào. Vì thế, ông ấy đã chi toàn bộ gia tài mua mảnh đất đó cũng như mời công ty chuyên nghiệp tới điều tra thực địa. Kết quả khá là khả quan. Do thiếu ngân sách để phát triển, ông Lanevus đã lập một công ty khai thác khoáng sản và định dùng dự án này để vay ngân hàng. Đồng thời, ông ấy còn phát hành một số cổ phiếu có tỷ lệ nhất định nhằm huy động vốn ban đầu. Hiện kế hoạch này vẫn nằm trong giai đoạn chuẩn bị. Số lãi nhận được rất hậu hĩnh.”

Người thường xem báo chí kiêm “chuyên gia lịch sử” như Klein biết rằng cổ phiếu tồn tại trên thế giới này. Anh cũng biết khái niệm đó bắt nguồn từ Roselle Đại đế. Đúng thế, lại là hắn.

Trong quá trình đô hộ Đại lục Nam, Roselle Đại đế đã thành lập công ty Tây Balam để huy động vốn từ công chúng thông qua việc phát hành cổ phiếu, qua đó thành công giải quyết được các vấn đề tài chính và giành được khoản tiền đầu tiên từ lợi ích thực dân.

Lợi nhuận thu về cực kỳ khổng lồ đã thúc đẩy sự xuất hiện của những thứ tương tự. Chẳng hạn như cổ phiếu đường sắt, cổ phiếu phát triển và sử dụng hơi nước, vân vân. Có cái thành công, có cái lại thất bại, góp phần sản sinh các tổ chức giao dịch chứng khoán như sở giao dịch chứng khoán Backlund.

Không chỉ có vậy, Roselle Đại đế còn tạo ra trái phiếu quốc gia, quỹ tín thác và nhiều thứ liên quan khác. Tới nay, cổ phiếu đã trở thành phương thức đầu tư ổn định nhất, mức sinh lời từ bốn đến sáu phần trăm mỗi năm.

Klein nhớ Benson từng nói nếu anh ấy được thừa kế cổ phiếu 3.000 Bảng thì chẳng cần khổ cực làm việc nữa. Bởi lãi suất ổn định hàng năm sẽ rơi vào khoảng năm phần trăm, tức là tầm 150 Bảng, cũng xấp xỉ thu nhập mỗi năm của Klein hiện giờ.

Đây chính là tầng lớp ăn lợi tức… Klein thầm than rồi cẩn thận hỏi: “Anh có chắc chuyện này không có vấn đề gì không? Lanevus đáng tin sao?”

“Tôi đã xem qua giấy tờ bất động sản và báo cáo khảo sát rồi. Có cả đóng dấu của chính quyền quận Sivellaus và xác nhận của công ty chuyên môn. Thêm nữa, trong văn phòng của Lanevus có nhiều bức ảnh chụp chung giữa ông ấy với ngài Deweyville và ngài Thị trưởng.” Glacis gật đầu đáp lại.

Ảnh chụp chung? Chẳng đại biểu được cái gì cả…  Là một người sống trong thời đại bùng nổ thông tin, Klein đã gặp qua quá nhiều trường hợp tương tự. Bởi thế, anh không tin vào câu chuyện này chút nào.

Nhưng vấn đề ở đây không phải là liệu anh có tin hay không. Klein đành cầm bút lên, vẽ một bản đồ sao tương ứng với các mốc thời gian quan trọng và thông tin Glacis vừa cung cấp.

Sau một hồi, Klein chỉ vào tinh bàn và nói: “Anh thấy đấy, đây là một nỗ lực không thành công. Đằng sau bề mặt hào nhoáng là vách núi, là vực sâu. Đề nghị của tôi là đi vòng qua nó, không tiếp xúc với nó.”

Glacis rơi vào yên lặng, miệng mở ra đóng lại mấy lần. Vài phút sau, anh mới gượng cười: “Khi về, tôi sẽ cân nhắc thật cẩn thận.”

Trước câu trả lời này, Klein chỉ có thể lắc đầu thở dài, cảm nhận sự bất đắc dĩ của một “Nhà Bói Toán”: “Nhà Bói Toán” chỉ có thể khuyên nhủ, chứ không thể quyết định thay cho người khác.

Khi hai người vừa ra khỏi phòng Thạch anh vàng, Angelica bước tới, bảo: “Anh Moretti, có người tìm anh xem bói.”

Cô nhỏ giọng nói thêm: “Anh ấy không cần tôi đề nghị, cũng không xem qua cuốn album.”

“Chẳng lẽ mình bắt đầu có tiếng tăm rồi sao?” Klein hướng đến sảnh tiếp tân trong sự nghi hoặc.

Bước thêm vài bước, anh đã trông thấy khách hàng. Anh ta mặc một bộ lễ phục đen, tay nắm lấy một cây trượng gỗ dát vàng. Dưới chiếc mũ chóp cao là mái tóc vàng ngắn màu vàng kim cùng chiếc mũi hơi quặp như mỏ chim ưng.

Hôn phu của Anna, người đã trải qua một thử thách khủng khiếp, Joyce Meyer... Klein đã gặp đối phương trong giấc mơ bói toán, liền nở nụ cười chào: “Buổi chiều tốt lành, anh Meyer.”

“Buổi chiều tốt lành, anh Moretti.” Joyce cởi mũ và cúi người: “Cảm ơn lời khuyên của anh dành cho Anna. Cô ấy luôn miệng ca ngợi anh thần kỳ như thế nào.” 

Klein cười khúc khích: “Tôi có thay đổi được điều gì đâu. Anh nên cảm ơn chính mình thì hơn. Nếu không nhờ sự kiên định và niềm tin hướng tới tương lai tốt đẹp, thì anh đã không tài nào vượt qua những khó khăn kia rồi.”

Sau khi tỏ ra khách khí, Klein không khỏi phun ra một câu châm biếm trong lòng: “Cứ như mèo khen mèo dài đuôi vậy?"

“Thú thật, tôi vẫn cảm giác như mình đang mơ. Tôi vẫn chưa thể tin được rằng tôi có thể sống sót sau khi trải qua nhiều tai nạn đến thế.” Joyce lắc đầu đầy xúc động.

Không đợi Klein trả lời, anh tò mò hỏi: “Ngay khi nhìn thấy tôi, anh đã biết tôi là ai. Có phải do cái mũi của tôi quá độc đáo, hay là anh đã bói ra rằng tôi sẽ đến?”

“Tôi đã có thông tin chi tiết của anh, thế là quá đủ cho một ‘Nhà Bói Toán’ rồi.” Klein cố tình trả lời một cách mơ hồ.

Joyce quả thật rất kinh ngạc. Hơn mười giây sau, anh mới nặn ra một nụ cười: “Anh Moretti, tôi muốn nhờ anh coi bói cho tôi.”

Dứt lời, Joyce mới chợt nhận ra: Anh Klein Moretti tự xưng mình là Nhà Bói Toán chứ không phải là Thầy Bói hay Người Xem Bói!

“Được chứ, chúng ta hãy đến phòng Thạch anh vàng nào.” Klein giơ tay lên mời. Lúc này anh tự nhiên cảm thấy mình nên mặc một chiếc áo choàng đen, cố gắng không nói nhiều để nhấn mạnh sự thần bí của “Nhà Bói Toán”.

Sau khi tiến vào phòng xem bói, Joyce Meyer chủ động khóa trái cánh cửa và nhìn quanh căn phòng. Klein thì nhân cơ hội này gõ trán hai lần, kích hoạt Linh Thị.

Joyce ngồi xuống, đặt gậy sang một bên, kéo chiếc cà vạt màu đen và nói một cách điềm tĩnh: “Anh Moretti, tôi muốn nhờ anh phân tích giấc mộng của tôi.”

“Phân tích giấc mơ?” Klein hành động như thể mọi thứ đều trong dự đoán, chỉ hỏi lại lần nữa để xác nhận. Tuy màu sắc sức khỏe của Joyce có chút u ám, nhưng không đạt đến mức bị bệnh. Màu cảm xúc thì chủ yếu là xanh xỉn, cho thấy Joyce đang thực sự căng thẳng.

Joyce nghiêm túc gật đầu: “Kể từ khi tàu Alfalfa cập cảng Enmat, tôi liên tục mơ về một giấc mơ kinh khủng. Tôi biết nó có thể là do dư chấn tâm lý bởi vụ tai nạn đó để lại và nên đi gặp bác sĩ tâm lý. Có điều, tôi sợ rằng đây không phải một giấc mơ bình thường. Một giấc mơ bình thường phải có những chi tiết khác biệt trong mỗi lần lặp lại chứ. Đằng này, nếu những gì tôi nhớ là đúng, nó chưa bao giờ thay đổi.”

“Với những Nhà Bói Toán, loại giấc mơ tương tự là gợi ý do thần linh ban cho.” Klein vừa an ủi, vừa giải thích: “Anh có thể miêu tả kỹ càng giấc mơ đó không?”

Nắm tay Joyce đặt trước miệng, anh trầm tư nói: “Tôi mơ thấy mình ngã từ tàu Alfalfa xuống biển. Mặt biển đỏ thẫm  y hệt máu.

“Khi sắp ngã xuống, tôi được một người trên thuyền giữ chặt. Tôi không biết đó là ai, chỉ biết anh ta rất mạnh mẽ.

“Lúc đó, tôi còn đang kéo một người khác, cố gắng để người đó không rơi. Đó là một người tôi gặp trên tàu Alfalfa, Younis Kim.

“Do Younis quá nặng, còn liên tục vùng vẫy, tôi không chịu được nữa. Cuối cùng, tôi chỉ có thể buông tay nhìn anh ta gào khóc và chìm xuống vùng biển đỏ ngòm.

“Ngay tại thời điểm này, người ở phía trên tôi cũng thả tay ra. Tôi vội quơ tay để nắm lấy cái gì đó, nhưng không bắt được cái gì cả, cơ thể nhanh chóng rơi xuống.

“Sau đó, tôi sẽ thức dậy trong cơn hoảng loạn, mồ hôi túa ra như tắm.”

Klein dùng lòng bàn tay xoa nhẹ lên trán, tỏ vẻ suy tư rồi nói: “Anh Meyer. Mọi người thường gặp ác mộng khi có vấn đề tâm lý, nguyên nhân dẫn tới điều đó thường rất cụ thể. Còn một ác mộng lặp đi lặp lại thì rất có thể là một lời nhắc nhở của Linh Tính, hoặc một gợi ý từ thần linh.”

Thấy được Joyce có biểu hiện bối rối, Klein giải thích kĩ hơn: “Tôi biết anh cảm thấy khó tin. Nhưng thỉnh thoảng, Linh Tính của người bình thường cũng có thể đưa ra một số lời nhắc nhở cho bản thân. Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra trên tàu Alfalfa, nhưng có thể thấy đó là bi kịch của sắt và máu, tạo thành một bóng ma bao phủ lên tâm hồn anh.”

Klein nói tiếp khi Joyce gật đầu. “Hẳn anh đã rất sợ hãi. Trong lúc khủng hoảng, con người rất dễ mất đi sức quan sát và xem nhẹ nhiều chi tiết đáng nhớ. Điều đó không có nghĩa là anh không thấy, chỉ là bỏ lỡ chúng mà thôi. Anh hiểu chứ? Kiểu không để ý ấy.

“Vậy nên những chi tiết đó vẫn tồn tại trong tiềm thức, trong Linh Tính của anh. Nếu như chi tiết ấy đủ quan trọng, Linh Tính sẽ nhắc nhở anh dưới dạng một giấc mơ.”

“Lần trước, mình cũng mắc phải trường hợp tương tự, không chú ý tới cảm giác, để rồi sau này mới nhận ra cuốn nhật ký nằm trong tay Ray Bieber. May mà mình có Linh Tính mạnh hơn, nhạy bén hơn và biết nhiều kiến thức thần bí học hơn nên có thể suy luận ra ngay lập tức…” Klein dừng lại vài giây, nhìn vào mắt Joyce Meyer và hỏi: “Có phải vị Younis Kim kia từng cầu xin anh giúp đỡ, nhưng cuối cùng vẫn không phải thoát khỏi kết cục mà vận mệnh sắp sẵn?”

Joyce vặn vẹo thân thể một cách mất tự nhiên, há miệng mấy lần mới nói: “Đúng vậy, nhưng tôi không hề thông cảm với hắn. Có lẽ một vài ngày, hoặc một tuần nữa thôi, anh sẽ biết hắn ta độc ác và tàn nhẫn thế nào trên báo chí. Hắn đã cưỡng hiếp và giết ít nhất ba người quý cô, ném một đứa bé xuống Cuồng Bạo Hải. Hắn cũng là kẻ dẫn theo một đám man rợ mất hết cả lý tính đến đồ sát hành khách và thủy thủ.

“Hắn xảo quyệt, mạnh mẽ và ác độc. Tôi không dám, cũng không thể ngăn hắn ta lại. Bởi điều đó sẽ khiến tính mạng của tôi sẽ bị đe dọa.”

“Tôi không có ý chất vấn anh.” Klein tỏ rõ thái độ của mình rồi giải thích, “Chỉ là giấc mơ của anh đang nói với tôi rằng anh cảm thấy hối hận và tiếc nuối. Anh tin mình đáng nhẽ không nên buông tay. Nếu anh cho rằng giết hắn là một hành động Công Lý, vậy tại sao anh lại cảm thấy hối hận và tiếc nuối, đến mức luôn lặp lại giấc mơ buông cánh tay đó?”

“Tôi không biết…” Joyce mê man lắc đầu.

Klein khoanh tay, đặt dưới cằm, cố gắng phân tích tình huống: “Kết hợp với những thứ tôi vừa giải thích, có vẻ như anh đã lỡ mất một chi tiết nhất định nào đó. Như là những gì Younis Kim từng nói, nội dung lời cầu khẩn của hắn, điệu bộ của hắn, vân vân. Tôi không thể thay anh nhớ lại sự việc, vậy nên mong anh hãy suy nghĩ kỹ lưỡng về nó.”

“Không có gì cả… Lúc ấy hắn chỉ kịp nói ‘tha cho ta đi, ta đầu hàng’…” Joyce nói, giọng nghi hoặc.

Klein không biết cụ thể ra sao, chỉ có thể thông qua giấc mơ để đưa ra chỉ dẫn: “Vậy anh có cho rằng nếu Younis Kim còn sống thì sẽ có ích, có thể chứng minh hay giải thích một số chuyện gì đó không?”

Joyce nhíu mày. Một lúc sau, anh trả lời: “Có lẽ… tôi luôn cảm thấy cuộc xung đột trên tàu Alfalfa nổi lên quá đột nhiên và trở nên căng thẳng quá nhanh. Cứ như thể phần ác trong trái tim mọi người bị phóng thích mà không thể kiểm soát được. Thật quá bất thường, rất bất thường. Có lẽ, có lẽ tôi muốn chất vấn Younis Kim tại sao hắn lại làm những chuyện như bị ma quỷ nhập thế này…”

Nghe lời miêu tả mơ hồ của Joyce, suy nghĩ của Klein phút chốc thoáng lên. Anh đặc biệt nói: “Không, không chỉ có thế.” 

“Hả?” Joyce trông có vẻ kinh ngạc.

Klein giữ nguyên bộ dáng cũ, nhìn chằm chằm vào đôi mắt của Joyce, giọng trầm thấp nhưng đầy uy lực: “Anh không những tìm ra điều bất thường, mà còn thấy được những điều anh đã bỏ qua. Kết hợp những điều mà anh sơ sót lại với nhau, chúng ta sẽ được một kết luận rất đáng sợ.

“Vậy nên, Linh Tính đã mách bảo anh rằng có một kẻ cực kỳ đáng nghi. Đó chính là người giữ lấy anh nhưng cuối cùng lại buông anh ra trong giấc mơ ấy. Anh vô thức bỏ qua người đó, thế nên mới không nhận ra được đó là ai. Người đó hẳn là cộng sự của anh. Người đó đã từng kiểm soát vận mệnh của anh, hoặc thậm chí từng cứu anh!”

Joyce bỗng đập mạnh lưng vào ghế, tạo thành một âm thanh trầm đục. Trán anh bắt đầu lấm tấm mồ hôi, hỗn loạn lộ rõ trong đôi mắt.

“Tôi… Tôi thấy được…” Joyce ọe một tiếng trước khi đột nhiên bật dậy. Chiếc ghế lưng cao lung lay suýt ngã.

“Tris…” Joyce dùng hết sức bình sinh để thốt ra cái tên đó. 

Đó là một cậu bé có khuôn mặt tròn, thân thiện và rụt rè. Cậu ấy là một anh hùng cứu vớt những người còn sống sót…

Klein không làm gián đoạn suy nghĩ của Joyce, chỉ hơi dựa mình về phía sau, im lặng chờ đợi.

Biểu cảm của Joyce thay đổi mấy lần, cuối cùng mới trở về trạng thái bình thường. Gương mặt anh có chút tái nhợt.

Anh nở nụ cười gượng gạo: “Ra vậy, cảm ơn anh đã phân tích giấc mơ của tôi. Có lẽ đến lúc tôi phải đi cục cảnh sát một chuyến rồi.”

Đoạn, Joyce rút ra một tờ 1 Saule từ ví.

“Tôi không nghĩ ra khoản tiền nào xứng với giá trị của anh, chỉ có thể đưa số tiền mà anh đã định.” Joyce đưa tờ tiền cho Klein.

“Tôi không phiền nếu anh đưa cho tôi tờ 10 Bảng đâu. Lại là 1 Saule, anh giống hôn thê anh thật đấy…” Klein duy trì phong thái của một thầy lừa, không nói lời nào và mỉm cười nhận lấy tờ tiền.

Joyce hít sâu một hơi, đội mũ lên, xoay người hướng đến cửa ra vào.

Khi cánh cửa hé mở, Joyce đột nhiên quay đầu, giọng chân thành: “Cảm ơn ngài, đại sư Moretti.”

Đại sư? Klein cười thầm, nhìn bóng lưng đối phương biến mất và lẩm bẩm: “Vụ việc xảy ra trên tàu Alfalfa có vẻ rất kì lạ… Giá mà đội trưởng có ở đây nhỉ. Chắc chắn ông ấy có thể tìm thấy nhiều điều hơn từ giấc mơ của Joyce Meyer…”

.

Sáng Thứ Ba. Backland, Khu Hoàng hậu.

Audrey dậy sớm tìm cô chó săn lông vàng Susie. Nàng nghiêm túc nói: “Susie, em đã là một sinh vật siêu phàm rồi. Chúng ta là đồng loại… Khụ, không, ý chị là chúng ta phải giúp đỡ lẫn nhau. Lát nữa em nhớ canh cửa cho chị, đừng để ai quấy rày nhé. Chị phải thực hiện một nghi lễ.”

Susie nhìn cô chủ và lắc đuôi.

Sau khi dặn dò cô chó săn lông vàng Susie, Audrey đi đi lại lại vài vòng, dường như vẫn chưa yên tâm cho lắm. Nàng không chắc liệu nghi lễ ma thuật này có dẫn đến điều gì đó quái lạ hay không.

“Làm thôi nào…” Nàng sử dụng góc nhìn thứ ba để tưởng tượng quá trình và nghĩ ra một sắp xếp mới.

Audrey khóa cửa phòng ngủ và nói với Susie: “Susie, em hãy ngồi ở đây nhé. Nếu Annie hay ai đó khác cố tiến vào thì hãy ngay lập tức chạy vào phòng tắm thông báo cho chị.” 

Vì phòng ngừa mọi tai nạn có thể xảy ra, hầu gái riêng của cô giữ chiếc chìa khóa có thể mở cửa căn phòng.

Susie nhìn cô bằng ánh mắt xa xăm, vẫy đuôi ba lần.

“Ngoan lắm, hôm nay chị sẽ để em thoải mái chọn bữa trưa!” Audrey nhẹ nhàng quơ nắm tay.

Nói xong, cô đi vào phòng tắm. Bên trong có một cái bồn tắm đầy nước hình vuông có chiều dài mỗi bên tầm ba đến bốn mét, hơi nước bay lên, tạo thành một khung cảnh mờ ảo.

Audrey dọn dẹp đống chai lọ trên chiếc bàn chữ nhật rồi mang nến, đồ cúng tế và áo choàng trắng vào.

Thiếu nữ thở ra một hơi, cầm một chiếc lọ màu xanh mờ đặt cạnh bốn ngọn nến lên. Chiếc bình hình trụ cỡ lòng bàn tay  phát ra những tia sáng mờ ảo, lung linh dưới ánh đèn. Bên trong chứa tinh dầu được chưng cất từ hôm qua. Là một người say mê thần bí học, Audrey đã nghiên cứu rất nhiều về những thứ tương tự, trong nhà còn có khá nhiều loại chất tinh lọc, tinh chất hoa, nước hoa, tinh dầu và hương cao do nàng tự tay làm. Bởi lẽ đó, nàng đã nhanh chóng thỏa mãn bước chuẩn bị ban đầu theo hướng dẫn của “Kẻ Khờ.”

“Hoa Ánh Trăng, bạc hà vàng, hoa Thâm Miên, cam Kim Thủ, hoa hồng đá… công thức kỳ lạ thật…” Audrey thì thào, “Phải tẩy rửa cơ thể trước khi tiến hành nghi thức để tâm hồn được thanh thản nữa. Đây là cách thể hiện sự kính trọng với thần linh, với đối tượng mình khẩn cầu."

Audrey hồi tưởng quá trình trước khi đặt tinh dầu cạnh bồn tắm và cởi bộ váy ở nhà ra.

Nàng ném chiếc váy lụa vào giỏ giặt, cuốn tóc lên, dùng ngón tay thử nhiệt độ của nước. Sau đó, nàng nhón chân, cẩn thận bước vào bồn, phó mặc cho dòng nước ấm bao quanh cơ thể đang chìm dần của mình.

“Phù…” Audrey thoải mái thở ra, cảm giác ấm áp và thoải mái đến lạ.

Mình chẳng muốn động đậy chút nào! Audrey cố tỉnh táo lại, với tay lấy chiếc bình xanh mờ ở bên cạnh, nhỏ vài giọt tinh dầu vào nước.

Hương thơm thoang thoảng dần lan tỏa, mùi hương tươi mới yên lặng len lỏi khắp không gian. Audrey hít vào vài hơi, hài lòng gật đầu.

“Mùi dễ chịu quá…

“Thật thoải mái, thư thái mà…

“Mình không muốn cử động nữa, ước gì có thể cứ nằm yên lặng như thế nhỉ…

“Yên lặng, yên… lặng… lặng…”

Không biết qua bao lâu, Audrey đột nhiên nghe thấy tiếng chó sủa.

Nàng giật mình mở mắt, ngơ ngác nhìn sang bên cạnh. Susie đã mở cửa và ngồi xổm cạnh bồn tắm lúc nào không hay. 

Audrey dụi mắt, nhận thấy nhiệt độ nước đã giảm đáng kể.

“Mình… mình ngủ quên sao?” Cô vô thức hỏi.

Susie nhìn cô với ánh mắt bất đắc dĩ, không hề sủa hay vẫy đuôi.

“Hì hì, hiệu quả của lọ tinh dầu nghi lễ đó tốt thật đấy. Đúng vậy, tốt quá mức rồi!” Audrey gượng cười và vui vẻ giải thích.

Cô đứng dậy, cầm lấy khăn tắm, vừa lau khô cơ thể vừa nói với cô chó săn lông vàng: “Susie, tiếp tục canh chừng nhé, không được để cho Annie hay ai đó khác tiến vào đâu!”

Sau khi khi cô chó lông vàng rời đi, nàng lặng lẽ lè lưỡi, vứt khăn sang một bên và khoác lên mình chiếc áo choàng trắng.

Thiếu nữ đóng lại cửa phòng, nghiêm túc hồi tưởng trình tự nghi thức đã ghi.

Sau đó, nàng đặt bốn ngọn nến ở bốn góc bàn.

“Một ổ bánh mì trắng ở góc trái trên cùng, một bát mì Feynapotter ở góc phải trên cùng. Thơm quá, cơ mà hơi nguội… Khoan! Giờ không phải lúc nghĩ ba cái thứ này! Paella ở góc dưới bên trái và bánh Desi ở góc dưới bên phải…” Audrey lắc đầu hai lần, nghiêm túc sắp xếp bàn thờ.

Chuẩn bị xong, nàng thắp sáng từng ngọn nến theo thứ tự rồi cắm một con dao bằng bạc vào chồng muối thô.

Niệm hết câu thần chú bằng tiếng Hermes linh thiêng, Audrey cầm lấy con dao được chạm trổ những hoa văn đẹp mắt, đặt nó trong một cái cốc đầy nước sạch.

Nàng tập trung tinh thần, rút lưỡi dao bạc đã được thánh hóa ra, mường tượng cảnh Linh Tính phun trào từ mũi dao.

Khi luồng năng lượng vô hình dâng tràn, Audrey cầm con dao, đi quanh tế đàn một vòng, cảm nhận một bức tường Linh Tính dựng lên quanh mình, loại bỏ hết những thứ dơ bẩn và phiền nhiễu ra ngoài. 

Nàng tiếp tục duy trì trạng thái “Khán Giả”, cố gắng không để niềm vui và sự phấn khích ảnh hưởng tới nghi thức.

Đặt con dao bạc xuống, nàng cầm cái bình lên và nhỏ một giọt vào mỗi ngọn nến.

Xì! Hương thơm thoảng trong không khí. Cơ thể, trái tim và Linh của Audrey dường như được vuốt phẳng.

Nàng hít sâu một hơi, cúi đầu đầy tôn kính và đọc câu thần chú chính thức bằng tiếng Hermes:

“Kẻ Khờ không thuộc về thời đại này;

Chúa tể thần bí ngự trên màn sương xám;

Vị vua vàng đen nắm giữ vận may.

Tôi khẩn cầu sự trợ giúp của Ngài.

Tôi khẩn cầu sự ân sủng của Ngài.

Xin hãy ban cho tôi một giấc giấc mộng đẹp.

Hoa Thâm Miên, loại thảo mộc thuộc về mặt trăng đỏ, xin hãy truyền sức mạnh của mi vào câu thần chú của ta!

Cam Kim Thủ, loại thảo mộc thuộc về mặt trời, xin hãy truyền sức mạnh của mi vào câu thần chú của ta!”

Đang định suy ngẫm về nội dung đoạn khấn, Audrey bỗng cảm nhận được kết giới Linh Tính bao quanh mình chợt rung động. Nàng cũng trông thấy những ngôi sao đỏ thẫm xoay tròn trên mu bàn tay.

Trái tim Audrey đập thình thịch. Nàng vội vàng nhắm mắt, vạch rõ tâm tư và chân thành cầu khẩn.

Chờ đến khi mọi việc kết thúc, nàng nghi ngờ nhìn ngó xung quanh, nhưng không tìm thấy sự khác lạ nào.

“Xong rồi sao?” Audrey nhíu mày lầm bầm.

“Kẻ Khờ không thuộc về thời đại này… Vị vua vàng đen nắm giữ vận may…” Trong khoang thuyền trưởng của tàu “Kẻ Báo Thù U Lam”, Alger Wilson khoác chiếc áo choàng thêu họa tiết gió bão, nhỏ giọng đọc lại ba đoạn miêu tả mà anh nghe được vào buổi chiều nọ. Có vẻ anh định thông qua đó để tìm ra manh mối xác định thân phận đối phương.

Đoạn, Alger lắc đầu rồi cáu kỉnh đứng lên, nhưng không hành động.

Alger chưa bao giờ cảm thấy thoải mái khi ở trên con tàu “Kẻ Báo Thù U Lam”, thứ sót lại từ vương triều Tudor này. Ngay cả khi đã nắm quyền điều khiển nó, trực giác Alger luôn nói với anh rằng nơi đây còn cất giấu nhiều bí mật, giống như vị Huyết Hoàng Đế kia vậy.

Cho nên anh có thể sử dụng con tàu này để kiểm tra năng lực của “Kẻ Khờ”, nhưng không đời nào thử một nghi lễ ma thuật không xác định trên nó.

Sau vài phút cân nhắc, Alger bước đến boong tàu và nói với đám thủy thủ ít ỏi: “Sắp đến quần đảo Rorsted rồi, chúng ta sẽ neo thuyền tại đó một ngày.”

Đoàn thủy thủ lập tức reo hò: “Cảm ơn ngài, đức ông!”

Tàu ma vốn không cần thủy thủ, số người trên tàu không nhiều nên vấn đề tiếp tế chưa bao giờ trở thành một nỗi lo. Các thủy thủ có thể thoải mái tận hưởng thực phẩm tươi mới và nước sạch mỗi ngày. Tuy nhiên, việc trôi nổi trên biển ngày này qua ngày khác cùng cảnh vật hầu như không mấy thay đổi có thể khiến họ kiệt sức. Như thể họ luôn phải chịu đựng, phải đè nén một điều gì đó. Cuối cùng, họ sẽ mất đánh mất khả năng kiểm soát bản thân.

Vì thế họ mới cần tới quần đảo Rorsted, một thuộc địa nổi tiếng trên biển Sonia với thương mại phát triển và ngành nghề đa dạng. 

“Tao sắp không nhịn được nữa rồi!” Một gã thủy thủ đẩy eo, phát ra tiếng cười mà thằng đàn ông nào cũng hiểu.

.

Trong xe ngựa quay về phố Zouteland, Klein đang thảnh thơi đọc báo đột nhiên sững người, như thể anh vừa nghe thấy một tiếng gọi mơ hồ.

Tiếng xì xào vô hình dội lại khiến trán anh giật giật, không thể kiểm soát.

Tiếng gọi không rõ ràng ấy chỉ kéo dài trong khoảng mười giây, đến và đi hệt như một cơn gió. Klein nhéo trán để giảm bớt cảm giác đau nhói phát ra từ sâu trong não bộ.

“Chẳng lẽ đây chính là tiếng thì thào từ một thực thể không xác định mà lão Neil từng nhắc đến? Do Linh Cảm của mình quá cao sao?” Khi từng ý nghĩ lóe lên, Klein đột nhiên đưa mắt nhìn mu bàn tay. Bốn chấm đen vừa hiện lên trên đó trông hệt những nốt ruồi tí hon bẩm sinh, rất khó phát hiện.

Bốn chấm đen bắt nguồn từ nghi lễ đổi vận nhanh chóng lắng xuống, mờ dần và biến mất.

Klein nhìn chằm chằm vào nó với vẻ kinh ngạc. Xét tới những gì vừa xảy ra, anh có thêm một phỏng đoán:

“Có phải ‘Công Lý’ hoặc ‘Người Treo Ngược’ vừa thử nghi lễ ma thuật mình đưa không?

“Mình nghĩ đúng rồi sao?

“Thông qua không gian thần bí phía trên sương xám, ba đoạn miêu tả ấy thực sự có thể hướng về mình?

“Có lẽ là do mình còn chưa đủ mạnh mẽ, nên mới không thể nghe được lời cầu nguyện từ họ… Liệu thông tin có được lưu trữ trên màn sương xám không nhỉ…

“Chậc, tối nay mình phải vào đó xác nhận qua mới được.”

Bởi có chút kích động pha lẫn lo âu, anh nhanh tay dựng thẳng tờ báo, tránh cho người khác nhận ra sự thay đổi trên nét mặt của mình.

Chẳng bao lâu sau, anh đã đến công ty an ninh Blackthorn ở đường Zouteland.

Trước khi kịp chào Rozanne, Klein nhìn thấy đội trưởng Dunn Smith cầm một tờ chân dung bước ra. 

“Cậu xem đi. Đây là lệnh truy nã nội bộ mới. Một Kẻ Phi Thường rất hung ác và tàn nhẫn đã đến Tingen.” Dunn mặc áo khoác đen, không đội mũ đưa mắt nhìn Klein và chìa tờ giấy qua.

Klein cầm tờ giấy. Một bức chân dung phác họa ánh vào tầm mắt anh.

Đó là một gương mặt tròn trịa, trông có vẻ hòa nhã và thẹn thùng, tuổi tác không lớn, chắc chỉ tầm mười tám đến mười chín tuổi.

“Tris. Theo đánh giá sơ bộ, hắn có thể là Kẻ Phi Thường Danh Sách 8 ‘Kẻ Xúi Giục’ đến từ ‘Linh Tri Hội’. Đây là thủ phạm đứng sau vụ thảm án trên tàu Alfalfa… Theo lời khai của nhân chứng, hắn đã rời khỏi cảng Enmat để tiến về Tingen. Nơi ở hiện tại chưa biết…”

Tris… Alfalfa… Hóa ra là một vụ án có bóng dáng Kẻ Phi Thường sao? Klein đột nhiên nhớ tới miêu tả và giấc mơ của Joyce Meyer, bèn nhanh chóng nói: “Đội trưởng, tôi biết một người liên quan, anh ta có thể là nhân chứng quan trọng.”

“Joyce Meyer phải không? Tôi biết rồi. Tối qua đội Trái Tim Máy Móc đã nhờ tôi trợ giúp. Tôi cũng đã gặp cậu trong giấc mơ của Joyce và xác định được chi tiết chứng minh Tris đúng là hung thủ.” Dunn với đôi mắt xám bình tĩnh mỉm cười.

“Đội trưởng thật nhàm chán…” May mà hôm qua mình được nghỉ chứ không phải đi làm. Klein có cảm giác như thể suýt chút nữa bị ông chủ bắt quả tang trốn việc vậy.

Anh hỏi ngược lại: “Đội trưởng, ‘Kẻ Xúi Giục’ là Con Đường Danh Sách nào vậy? Linh Tri Hội là gì?”

Xúi giục người khác chém giết lẫn nhau là cách Tris loại bỏ tác dụng phụ của ma dược chăng? Hay là một điều cần thiết để thăng cấp?

Dunn suy nghĩ vài giây rồi nói: “Cũng tới lúc cậu phải làm việc với các tài liệu liên quan tới Kẻ Phi Thường và tổ chức bí ẩn rồi. Cho dù lão Neil có yêu cầu thì cũng đừng suốt ngày cắm mặt vào lịch sử thế.”

“Đội trưởng à, sở dĩ ông thuê tôi vào đây là vì muốn có một chuyên gia lịch sử mà?” Klein chỉ dám thầm than trong lòng chứ không nói thẳng ra miệng. Anh nghiêm tục gật đầu. “Vâng.”

Sau đó, anh cầm tờ giấy xác nhận của Dunn xuống kho vũ khí dưới tầng ngầm.

“Dunn nói đúng. Đến lúc phải cho cậu tìm hiểu về các Kẻ Phi Thường và tổ chức bí ẩn rồi.” Lão Neil vẫn mặc bộ áo choàng đen dáng cổ điển như thường lệ. Khi đọc qua tờ giấy, lão không hề tỏ ra kinh ngạc mà nghiêm túc lặp lại câu nói kia.

Ngay sau đó, lão đế thêm: “Rốt cuộc, tối mai tôi và cậu sẽ cùng tới chợ đen mà.”

“Tối mai?” Klein lộ rõ sự ngạc nhiên và vui mừng, anh vội hỏi lại để xác nhận lần nữa.

Lão Neil gật đầu thở dài: “Tôi là một người không thể ngủ ngon nếu mắc nợ, chỉ muốn trả nợ càng nhanh càng tốt thôi.”

“Tôi có thấy ông hành xử như vậy bao giờ đâu. Dùng dằng đến phút cuối mới chịu dùng nghi lễ ma thuật để giải quyết vấn đề… Hóa ra mình cũng không phải người duy nhất mắc bệnh trì hoãn… Khoan, ông có cần ám chỉ “sợ tiêu hết tiền dùng để trả nợ” thế không?” Klein giễu cợt trong lòng. Thay vì vạch trần lão Neil, anh thúc giục: “Ông Neil, nhờ ông vào Cổng Chinese lấy giúp tôi các tài liệu nhé.”

Đa số tài liệu trong kho vũ khí liên quan tới khảo cổ và lịch sử. Có rất ít giấy tờ về Kẻ Phi Thường hoặc tổ chức bí ẩn, chủ yếu là các kiến thức cơ bản.

Lão Neil nhàn nhã nhấp một cà phê xay tay, chẹp miệng một cái rồi mới cầm giấy xác nhận rời khỏi kho vũ khí, để Klein canh gác thay ông.

Chừng mười phút sau, lão Neil quay về cùng một xấp tài liệu dày cộp.

“Đọc ở đây, đừng mang đi đâu.” Lão căn dặn khi đặt tài liệu xuống bàn.

“Vâng.” Klein gật mạnh, vươn tay lật các trang giấy, liếc thoáng qua nội dung.

“Rất chi tiết. Không hổ là tài liệu nội bộ của Kẻ Gác Đêm. Đúng là giáo hội có lịch sử hơn ba bốn nghìn năm có khác…” Klein vừa nhìn đại khái, vừa cảm khái trong lòng.

Những tài liệu này không chỉ giới thiệu về các tổ chức bí mật khác nhau mà còn liệt kê khá nhiều Con Đường Danh Sách. Một số rất hoàn thiện, một số chỉ ghi tên Ma Dược và năng lực Kẻ Phi Thường thuộc Danh Sách này. Cũng có cái thiếu sót hoặc để trống hoàn toàn.

Klein kìm nén sự phấn khích khi tìm kiếm Con Đường Danh Sách của “Nhà Bói Toán”.

Trong tiếng giấy sột soạt, anh nhanh chóng bắt gặp những từ ngữ quen thuộc.

Dẫu vậy, biểu cảm mừng rỡ của Klein nhanh chóng vỡ vụn. Bởi đằng sau “Nhà Bói Toán”, vị trí Danh Sách 8 và Danh Sách 7 trống không!

Bình luận (0)Facebook