• Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Chương 4 Hồi 7: Gánh Nặng

Độ dài 3,005 từ - Lần cập nhật cuối: 2022-11-24 09:45:45

Tôi ghé qua cửa tiệm để báo với mọi người rằng mình đã trở về, và họ kể với tôi những gì đã xảy ra trong lúc tôi vắng mặt. Có vẻ như mọi chuyện vẫn diễn ra suôn sẻ, duy chỉ có hai vấn đề không liên quan tới công việc.

“Cái này đến từ Weizen,” Carme nói và đưa tôi một bức thư.

Thêm vào đó còn có hai tờ giấy được đóng khung đang nằm trên mặt bàn làm việc của tôi. Phải mất một lúc tôi mới nhớ ra Weizan là cái gì, nhưng đó là tên ngôi làng của Fina, Maria và Jane. Nó được ghi trên sơ yếu lý lịch của họ, nhưng tôi đã quên bẵng đi mất.

“Có vẻ như nó được gửi bởi ngài trưởng làng,” tôi nhận định.

Lá thư nói rằng bọn họ đã quyết định sẽ sản xuất và bán trà lúa mạch, và họ rất biết ơn tôi. Có vẻ như ngôi làng đã đồng thuận với ý tưởng này, và đang trong mối quan hệ hợp tác hữu hảo với Công ty Thương mại Saionji. Mỗi hộ dân trong làng sẽ tự làm một kho dự trữ lúa mạch riêng, và họ cũng đang lên kế hoạch với Pioro để xây dựng một nhà máy chế biến nơi rất nhiều người có thể làm việc cùng một lúc, cũng như dự tính tăng sản lượng lúa mạch.

Sau khi Pioro nhận được lá thư giới thiệu cùng mẫu trà mà tôi gửi, có vẻ như anh ấy đã đích thân đến thăm ngôi làng. Ngoài lúa mạch ra, anh ấy còn mua luôn cả số ngũ cốc dư thừa trong lúc đang ở đó. Ngôi làng có vẻ rất vui mừng. Để cảm tạ, ngoài lá thư cảm ơn đặc biệt này ra, họ còn gửi cho tôi một tờ giấy chứng nhận nói rằng tôi là Cố vấn của Nhà máy Sản xuất Trà Lúa Mạch Weizen. Cả hai thứ đó đều được đóng khung riêng biệt.

Vị trí cố vấn này hoàn toàn có vẻ chỉ mang tính danh dự, và họ không yêu cầu tôi phải làm thêm gì khác. Tôi cũng không được trả lương cho công việc đó, tuy nhiên họ dự tính sẽ định kỳ gửi lá trà đến để tôi có thể đánh giá chất lượng của chúng.

“Chúc mừng cậu đã nhận được vị trí cố vấn,” Carme nói.

“Cảm ơn anh.”

Tôi chưa làm gì xứng đáng để nhận được danh hiệu này, nhưng tôi vẫn quyết định chấp nhận lời khen của anh ấy.

“Còn về việc còn lại thì sao?”

“Phải rồi. Gần đây tôi có nghe một vài tin đồn khá kỳ lạ. Cư dân của khu ổ chuột đang đồn rằng nơi ở của họ sẽ bị phá hủy để xây một quận mới, và bọn họ sẽ bị đuổi đi chỗ khác.”

“Nghe không ổn chút nào.”

Cơ mà nó thực sự rất kỳ lạ. Tôi hiểu mối quan ngại của bọn họ, nhưng lại không rõ vì sao họ lại nghĩ rằng chuyện đó sắp xảy ra. Có vẻ như Carme cũng nghĩ như vậy, vì thế anh ấy đã ngay lập tức đi điều tra.

“Tôi đã hỏi lại Thương Hội và được bảo rằng phía chính quyền không hề có kế hoạch nào như vậy cả. Nhưng hồi trước khi chúng tôi tới làm việc ở đây, văn phòng chính quyền của thị trấn này đã xảy ra một vài vụ bê bối, đúng không?”

“Việc đó có xảy ra. Nhưng họ đã chỉ định một người mới lên nắm quyền rồi mà. Công chúng không tin tưởng anh ta sao?”

“Có vẻ là như vậy. Vụ việc hồi đó đã được coi là giải quyết sau khi người lãnh đạo cũ bị sa thải, nhưng khả năng cao là bọn họ vẫn chưa lấy lại được lòng tin của người dân. Và cứ thế, nghi ngờ lại càng chồng chất thêm nghi ngờ.”

Tôi nhớ lại người đàn ông mình đã gặp trong Ngày Hội Thành Lập. Anh ta là người lãnh đạo mới, nhưng có vẻ như dọn dẹp những gánh nặng mà người tiền nhiệm đã để lại sẽ không hề dễ dàng chút nào.

“Chuyện này có ảnh hưởng gì đến việc kinh doanh của chúng ta không?”

“Hiện tại thì nó hoàn toàn không liên quan. Nhưng tôi nghe nói những người sống ở khu ổ chuột dạo gần đây đã bắt đầu đi tìm việc nhiều hơn, và họ chủ động đến thăm những cửa hàng đang cần thuê người. Chúng ta hiện không tuyển nhân viên, nhưng có lẽ sẽ có những vị khách tới hỏi xin việc sớm thôi. Tôi nghĩ chúng ta cần lên kế hoạch trước nếu chuyện đó xảy ra.”

“Chà, chúng ta có cần thêm nhân sự không?”

Tôi vẫn có đủ tài chính để trả cho người mới, nhưng những nhân viên hiện tại của tôi đã là đủ điều hành tiệm giặt rồi. Ngay cả khi tôi muốn mở thêm chi nhánh trong tương lai, tôi không thể nghĩ ra lý do mà khiến mình phải vội vã tuyển người ngay.

Mặt khác, những người sống ở khu ổ chuột đã giúp đỡ cửa tiệm của tôi từ khi nó mới khánh thành. Tôi thậm chí còn có rất nhiều người quen tới từ khu đó. Nếu bọn họ gặp rắc rối, tôi muốn giúp họ theo bất cứ cách nào có thể.

“Tôi nghĩ cái này còn phụ thuộc vào từng người, nhưng kể từ hồi tôi làm việc ở đây đến giờ, tôi chưa từng có ấn tượng xấu về bất cứ ai đến từ khu ổ chuột,” Carme nói.

“Ban đầu tôi cũng nghĩ nơi đó sẽ nguy hiểm hơn cơ.”

“Trong hầu hết các trường hợp, tôi nghĩ suy đoán như vậy là đúng. Khi một thị trấn đạt đến một kích cỡ nhất định, sẽ xuất hiện những khu vực mà lính gác không thèm tuần tra. Có thể nói, sự thật là khu ổ chuột vẫn có lính gác đi tuần đã khiến nó trở nên an toàn nhất có thể rồi.”

Thật thú vị, nhưng chúng tôi đang đi lạc đề. Nếu tôi muốn thuê người mới, họ có thể vận chuyển quần áo cho chúng tôi, nhưng vai trò đó không thực sự cần nhiều người đến vậy. Đương nhiên là vào giờ cao điểm thì khác, vì vậy có thể thuê người làm việc bán thời gian. Việc đó sẽ khiến số lượng nhân viên nhận đơn tăng lên, kết quả là giảm thời gian chờ đợi của khách hàng.

Tôi đề xuất ý tưởng này cho Carme.

“Anh nghĩ sao?” tôi hỏi.

“Chúng ta sẽ cần phỏng vấn người đó trước, và đảm bảo rằng họ không có ý định ăn cắp slime cọ rửa. Ngoài chuyện đó ra, việc này sẽ không khiến chúng ta bị dư thừa nhân lực, nên tôi nghĩ sẽ ổn thôi. Nếu chúng ta tìm được người có tiềm năng, một ngày nào đó họ thậm chí có thể được thuê toàn thời gian.”

“Vậy anh có thể sắp xếp việc đó được không?”

“Như ý cậu. Đó là toàn bộ những gì tôi muốn báo cáo trong hôm nay.”

“Cảm ơn anh như mọi khi. Hẹn gặp lại anh sau năm ngày.”

“Tôi sẽ chăm sóc cửa tiệm trong lúc cậu vắng mặt. Mà nhân tiện, Sếp, cậu định làm gì từ giờ cho đến cuối ngày?”

“Chà, tôi cần về nhà và kiểm tra khu mỏ. Nếu có thứ gì đó bắt đầu làm tổ ở đó trong lúc tôi đi vắng, tôi cần phải tiêu diệt nó ngay.”

“Cậu vừa mới trở về sau một chuyến đi dài thôi đấy, đừng làm quá sức nhé.”

“Cảm ơn anh.”

Sau khi hoàn thành bài báo cáo của mình, Carme quay trở lại mặt tiền của cửa tiệm. Tôi nhận lời khuyên của anh ấy và về nhà từ sớm.

◇◇◇

Tôi đang trên đường đi bộ tới cổng phía bắc, xuyên qua khu dân cư thì bỗng ngửi thấy một hương thơm ngọt ngào và dễ chịu. Có vẻ như nó tới từ một ngôi nhà ở gần đó. Khi để ý kĩ hơn, tôi mới phát hiện ra đó là một quán café.

Một tấm biển treo bên cạnh ngôi nhà gỗ ấm cúng ấy có đề tên Trán Mèo[note48495], và hiện họ đang mở cửa. Chỉ đến lúc đó tôi mới nhận ra giờ đang giữa trưa và tôi vẫn chưa có gì bỏ bụng. Cơ mà tôi không rõ liệu mình có được vào trong hay không. Biển hiệu đề là có mở cửa, nhưng lại chẳng có lấy một khách nào vào ra cả; còn dòng chữ đề trên tấm biển đó nguệch ngoạc đến độ cho rằng đây là tác phẩm của một đứa trẻ nghịch ngợm nào đó cũng không sai.

“Cậu làm gì ở đây vậy, cậu Takebayashi?”

“Hm? Oh!”

Tôi quay mặt về hướng có tiếng nói và nhìn thấy một người đàn ông chải chuốt mang theo một cái cặp hơi cũ theo mình. Đây chính là người lãnh đạo hiện tại của thị trấn này.

“Xin chào,” tôi nói.

“Vâng, xin chào. Cậu cũng đến đây để ăn hả?”

“Em vừa dừng lại tại đây vì có mùi rất thơm, nhưng lại không rõ mình có nên vào trong không.”

“Ra là vậy. Để tôi đoán, nơi này nhìn giống với một căn hộ bình thường thôi đúng không? Ấn tượng đầu tiên của tôi về nó cũng y hệt. Cậu có muốn vào cùng luôn không?”

Anh ấy vừa mời tôi ăn trưa cùng. Tôi cũng đang đói nên chả có lý do gì để từ chối cả.

“Chào mừng.”

“Tôi sẽ dùng giống mọi khi; trà đen và bánh mì kẹp cho bữa trưa. Thêm một chút bánh chanh ăn tráng miệng nữa. Hôm nay tôi có khách đi cùng, nên làm luôn hai suất đi.”

“Tôi hiểu rồi. Mời quý khách ngồi.”

Khi chúng tôi bước vào trong, có một quầy tiếp tân nằm ngay trước mặt. Ngồi đằng sau đó là một người phụ nữ miêu thú nhân lớn tuổi. Ngay sau khi Arnord hờ hững gọi đồ, bà ấy biến mất vào phía trong quán café.

“Lối này,” Arnold nói, dẫn tôi về phía một cái bàn bốn người cạnh bức tường phía đông của quầy tiếp tân. Có một cái bàn giống y hệt ở phía đối diện, và chỉ có mỗi thế thôi. Từ những gì tôi thấy, quán café này có thể ngồi tối đa tám người.

“Nơi này nhỏ nhắn như vẻ bề ngoài của nó vậy. Thêm vào đó, ba cái món tôi gọi ban nãy đã làm nên toàn bộ thực đơn của họ rồi. Dù là vậy, chúng đều rất ngon.”

“Thú vị thật. Anh thường hay đến đây ăn ạ?”

“Cứ coi là thế cũng được. Dạo gần đây tôi bắt đầu đến nơi này năm ngày một tuần.”

Thế gần như là ngày nào cũng tới rồi, không thể gọi là thường tới nữa.

“Hai ngày còn lại thì tôi sẽ mua thứ gì đó ăn ở gần văn phòng. Cậu thấy đấy, tôi không biết nấu ăn.”

“Ra vậy. Anh có vẻ là một người bận rộn. Em nghe nói là có một quận mới sắp được xây dựng ở hướng phía nam của thị trấn.”

“Cậu biết về chuyện đó sao? Cơ mà giờ nó vẫn đang trong giai đoạn quy hoạch. Càng về sau mới càng bận rộn hơn.”

Khuôn mặt anh ấy khi nói thế khiến tôi liên tưởng đến những người đồng nghiệp trên Trái Đất của mình.

“Em xin lỗi nếu như có nhầm, nhưng trông anh thực sự rất mệt mỏi đấy,” tôi bảo với anh ấy.

“Trông rõ vậy sao?”

“Có lẽ là không, nhưng em có linh cảm. Anh không phải là người đầu tiên em thấy trong tình cảnh này đâu.”

Arnold nhìn tôi và thở dài.

“Tôi cho rằng có giấu cũng chả có ích gì.”

Lúc đó đồ ăn của chúng tôi được mang ra, vì vậy tôi ăn chiếc bánh mỳ trong lúc lắng nghe câu chuyện của anh ấy. Anh ấy kể chuyện theo cách nói giảm nói tránh, nhưng tóm gọn lại mà nói, khối lượng vấn đề mà anh ấy phải đối mặt nhiều đến không tả.

Trước hết, văn phòng chính quyền đã phải sa thải rất nhiều nhân sự liên quan đến vụ tham nhũng của người lãnh đạo tiền nhiệm của Arnold. Có nghĩa là hiện họ đang bị thiếu người. Họ cũng đã tuyển thêm nhân viên mới, nhưng phải mất một thời gian đào tạo nữa những người đó mới có thể làm việc hiệu quả được. Những người nhân viên trước đó mà không bị sa thải đều biết cách làm việc, nhưng họ chính là những người đã để cho người lãnh đạo trước đó của mình lạm dụng quyền hành. Đây là thời điểm hoàn hảo để họ xung phong hành động, nhưng tất cả bọn họ đều không phải là kiểu người chủ động cho lắm.

“Thật mệt mỏi. Thực sự đấy.”

“Cậu cũng có nhân viên nào như vậy à?”

“À không, em rất hài lòng với những nhân viên hiện tại của mình. Nhưng em đã từng phải đối phó với những người như vậy trong quá khứ.”

Tôi suýt chút nữa đã để lộ ra chuyện bí mật. Dù gì đi nữa, chúng tôi vẫn chưa nói về vấn đề tại khu ổ chuột. Tôi muốn biết thêm tình hình, nên tôi hướng chủ đề câu chuyện theo hướng đó.

“Cậu cũng nghe về chuyện đó rồi sao? Không có khoản nào trong kế hoạch của chúng tôi có đề cập đến việc sẽ đuổi những cư dân ở khu ổ chuột ra ngoài, và chúng tôi cũng không hề có ý định làm thế. Tuy nhiên…” Arnold nhăn mày và nhấp một ngụm trà.

Có vẻ như anh ấy biết ngọn nguồn của tin đồn này. Khả năng cao đó là một vấn đề vô cùng phức tạp và đau đầu.

“Có những người vô gia cư sống trong khu ổ chuột, và những nơi trú tạm của bọn họ thường xuyên nằm chắn đường đi lại. Một vài người khác thì sống tại những tòa nhà đổ nát không đảm bảo tiêu chuẩn an toàn. Chúng tôi đã yêu cầu họ mang đồ đạc và di chuyển tới một nơi khác sống, hoặc là tự sửa lại ngôi nhà mình đang ở. Đây hoàn toàn là theo luật pháp, và nếu bỏ qua vấn đề này thì cũng giống như chúng tôi bỏ mặc trách nhiệm của mình vậy.”

Sau khi những lời đó được đưa ra, có vẻ như nó đã bị phóng đại thành việc bọn họ bị đuổi ra khỏi thị trấn.

“Tôi đã kiểm tra lại hồ sơ lưu trữ, và số lượng những vụ tai nạn đến từ việc sống trong các ngôi nhà đổ nát hoặc hư hỏng đã tăng lên trong vài năm trở lại đây, cũng như số trường hợp chết cóng vào mùa đông đối với những người vô gia cư. Chúng ta bắt buộc phải làm gì đó.”

Nhưng ngay cả anh ấy cũng không tin vào chuyện những cư dân sống tại đây có thể di chuyển hay sửa nhà được ngay. Anh ấy biết bọn họ không có nhiều tiền. Đó là lý do anh ấy đón nhận cả ý kiến của người dân vào nữa. Anh ấy chưa bao giờ có ý định dùng vũ lực để buộc họ di chuyển, và trong thời điểm hiện tại, chỉ đơn giản là đề nghị với họ thôi.

Đã có một ban được lập ra chuyên để xử lý những vấn đề kiểu này, và có lẽ việc xây dựng quận mới cũng chính là để tăng số lượng việc làm cho cư dân tại đây. Nhưng vấn nạn vô gia cư lại là một vấn đề hoàn toàn khác.

“Dù thế nào đi nữa, khắc phục những khó khăn này theo cách tốt nhất có thể chính là nhiệm vụ và trách nhiệm của chúng tôi.”

“Em tôn trọng sự cống hiến của anh.”

Nhưng tôi bắt đầu tự hỏi liệu những vấn đề tương tự có xảy đến với người tiền nhiệm của anh ấy không. Có lẽ ông ta cũng bỏ mặc cả khoản này nữa.

“Bánh chanh của cậu đây.”

“À vâng, cảm ơn––Cái quái..?!”

Tôi đang nghĩ trên đĩa sẽ là một vài miếng cắt của cái bánh, nhưng vì lý do nào đó, họ mang nguyên cả cái bánh ra cho chúng tôi. Thế này có hơi nhiều cho hai người.

“Tôi sẽ mang vào những cái đĩa đã dùng xong.”

Khi số đĩa ấy được dọn đi, lại thêm một cái bánh khác được đặt vào chỗ trống vừa hở ra. Mỗi người chúng tôi có phần ăn tráng miệng là cả một cái bánh lớn.

“Cái quái gì thế này?”

“Tôi xin lỗi. Có lẽ gọi gấp đôi phần ăn bình thường của tôi có hơi sai lầm.”

“Anh gọi một cái bánh này để ăn tráng miệng vào tất cả mọi ngày á?”

“Tôi không thể ăn hết ngay được, vì vậy tôi mang chúng về và ăn trong giờ giải lao. Tôi thường muốn ăn thứ gì đó ngọt trong lúc mệt mỏi,” anh ấy ngại ngùng nói.

Đây là lần đầu tiên trong ngày tôi thấy anh ấy cười, nhưng tôi nghĩ anh ấy nên lo về căn bệnh tiểu đường hơn. Tôi cắn một miếng bánh. Phần vỏ bánh giòn và nóng, và vị chua của chanh càng làm tôn thêm hương vị của kem ở trong. Nó rất ngon. Trong này không có quá nhiều đường, nhưng tôi cũng chỉ ăn được hai đến ba miếng. Tôi quyết định mang phần còn lại về nhà.

Trong lúc Arnold Bernhyde ăn số bánh của mình, tôi mới nhận ra mình chưa bao giờ được thấy anh ấy thư giãn như thế này. Đây có lẽ là khoảng thời gian ít ỏi duy nhất trong ngày để anh ấy tránh xa công việc mệt mỏi, vì vậy tôi tránh không xen vào niềm vui nhỏ bé của anh ấy.

Bình luận (0)Facebook