• Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Chương 2

Độ dài 14,859 từ - Lần cập nhật cuối: 2019-10-29 05:00:22

Chương thứ hai - Bức tượng

Có những thứ không như bạn mong muốn.

Có những việc không đi theo hướng bạn cần.

Có những khi bạn bị bỏ lại trong bỡ ngỡ.

Những tình huống như thế không hẳn là hiếm.

Lấy ví dụ là một hình thức mua bán thông thường: một người mua sản phẩm của nhãn hiệu nổi tiếng để rồi nhận ra nó chỉ là hàng nhái, hay người khác đặt mua thứ gì đó trên mạng và nhận được một thứ hoàn toàn khác so với cái họ mong chờ. Những chuyện như thế có cả tá.

Ai cũng có một hai kinh nghiệm tương tự, và mỗi người lại có cách xử lý khác nhau, hoặc chấp nhận hoặc đổi trả sản phẩm.

Nhưng nếu món hàng là một Antique thì sao?

Nếu nó là hàng nhái thì không có gì phải nói.

Nhưng nếu nó là hàng thật và sức mạnh của nó lại hoàn toàn khác với mong mỏi thì đó không phải là một chuyện có thể mở miệng cười bỏ qua.

Chắc chắn đó là chuyện không thể cười bỏ qua.

********************************

Một đứa bé đang nằm trên giường, hít thở vô cùng đau đớn.

Chưa tròn 10 tuổi, cô bé đã chịu đựng cơn sốt trong ba ngày liền. Sức nóng phủ kín gương mặt em, trên trán lúc nào cũng mướt mồ hôi dù mẹ cô bé liên tục dùng khăn thấm cho con mình. Thỉnh thoảng, cô bé lại ho khan, rồi rên rỉ do cơn đau đầu gây ra vì cử động đột ngột.

Trong làng không có bác sĩ. Chỉ có nông dân quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời.

Trong làng cũng không có thuốc men. Dù đôi khi có những người bán thuốc dạo vào làng nghỉ qua đêm, dân làng cũng không có tiền mà mua. Thỉnh thoảng họ đổi thuốc thang bằng giường gối và bữa sáng, nhưng chẳng thấm tháp gì so với dân số  của làng.

Vì thế, nghỉ ngơi là phương thuốc duy nhất có thể có.

Vì thế, những ai bị bệnh quá nặng có thể ra đi.

Chúng tôi nhận thức được tình hình không mấy khả quan này ngay khi đặt chân vào làng.

“Xin ngài, hãy cứu con gái tôi!”

Trong hoàn cảnh như thế, cha mẹ đứa bé chẳng còn cách gì khác ngoài việc nương tựa vào chúng tôi. Vì chúng tôi trong quá khứ đã từng “làm” bác sĩ.

Phải, không phải “là” bác sĩ, chúng tôi đã từng “làm” bác sĩ.

Nhưng nói như thế không lại không chính xác.

Chúng tôi không dùng bất kỳ thang thuốc nào, cũng chẳng giải phẫu cho bất kỳ ai.

Tất cả chỉ là cái chạm tay của ngài.

Đó chỉ là cái chạm tay vào người bệnh của sư phụ tôi.

“Em không cần phải lo lắng nữa,” ngài ấy thì thầm và dùng tay phải chạm vào trán đứa bé.

Giây phút sau---

Nhịp thở của cô bé từ từ ổn định lại. Cơn sốt, thứ làm má em đỏ rang và liên tục đổ mồ hôi, dần biến mất. Vòng tuần hoàn đau khổ do các cơn ho khan bị phá vỡ và cô bé mở mắt ra như chẳng có chuyện gì xảy ra.

“Ơ? Mọi người làm sao thế?”

Đây là những từ đầu tiên của cô bé sau ba ngày chịu đựng cơn sốt.

Cha mẹ em vỡ òa ra khóc khi họ biết rằng con gái mình đã sống sót, và ôm lấy ôm để đứa trẻ.

Người dân xung quanh sau khi nín thở khâm phục, cũng dần vây quanh chúng tôi cùng những lời tán dương.

Cái chạm tay của ngài sẽ chữa lành mọi bệnh tật.

Cái chạm tay của ngài sẽ chữa lành mọi vết thương.

Đó là một phép màu đến từ tay của một người trần mắt thịt.

Sức mạnh của thần thánh chảy trong bàn tay phải của ngài---

********************************

“Chào bà con!”

Tôi, Tokiya Kurusu, bước vào cửa hàng cùng với lời chào như thường lệ.

Quầy kệ bên trong cửa hàng tràn ngập những thứ linh tinh như phụ kiện, chai lọ, khung ảnh và mấy thứ không tên khác.

“Tràn ngập” chứ không phải “bày biện”—vì nhìn kiểu nào cũng thấy đây giống cái nhà kho hơn là cửa hàng. Cho dù nhà kho cũng gọn gàng hơn.

Và cái cửa hàng hoang vu nằm trong hẻm này, Cửa hàng đồ cổ (FAKE) Tsukumodo, là nơi tôi làm thêm.

“Có ai ở đây không?”

Bình thường thì phải có một cô gái vận đồ đen, nói năng cộc lốc đứng phía sau quầy tính tiền, nhưng hình như hiện giờ cô ấy đang ở phía sau cửa hàng.

Tôi mở cánh cửa đằng sau và đi vào sâu hơn. Cửa hàng được nối thẳng với căn hộ hai tầng nằm phía sau.

Tôi bước vào phòng khách, đáng lẽ tôi phải nhìn thấy người tôi đang tìm thì nằm trên bàn là một thứ gì đó kỳ lạ.

“Gì thế này?”

Đó là một chậu hoa và một con chó búp bê. Có cây cỏ gì đó được trồng trong chậu và cột với con búp bê bằng dây thừng. Ngoài ra, trên thân chậu còn có một mặt đồng hồ với một cây kim chỉ thời gian.

Quan sát gần hơn, đó là một đồng hồ hẹn giờ và nó được hẹn lúc 5 giờ chiều.

Còn một phút nữa là đúng 5 giờ. Con chó mở mắt ra và bắt đầu di chuyển trên bàn.

Với vẻ ngoài như thế thì đây có thể là một dạng đồng hồ tự động, nhưng tôi vẫn không biết mục đích của nó là gì.

Khi cái cây cỏ được kéo ra, rễ cây màu nâu của nó dần dần ló dạng. Nhìn gần hơn, phần rễ có hình dáng gần giống đầu người và nó làm tôi lạnh sống lưng.

Tuy nhiên, tôi lại không mấy ngạc nhiên. Dù sao thì chủ cửa hàng này là một con nghiện cho những thể loại như vầy.

Nhưng đây đúng là một cái đồng hồ báo thức kinh tởm làm sao. Tôi không dám chào bình mình mỗi ngày với nó đâu.

Những ý nghĩ như thế vụt qua đầu, trong khi con chó tiếp tục di chuyển ra xa cái chậu từng chút một, càng làm phần rễ trông như đầu người lộ ra hơn.

Cái đồng hồ báo thức này giông giống gì ấy nhỉ.

Để xem nào…

Hình như có câu chuyện cổ hay truyền thuyết nào nói về con chó kéo cái cây gì phải không ta?

Nó gọi là gì nhỉ…? Hm…

“À, là mandrake.”

Khi rễ cây mandrake bị kéo ra, nó sẽ hét lên và giết tất cả ai nghe phải, đó là lý do vì sao chó được dùng để kéo nó ra.

“… Ai da, không phải chứ.”

Khi tôi vừa có linh cảm chẳng lành thì đồng hồ điểm đúng 5 giờ và con chó búp bê vừa hoàn thành bước cuối cùng.

Phần rễ cây trông giống đầu người bị kéo ra khỏi chậu và cất tiếng thét với khuôn mặt y chang bức vẽ Tiếng Thét của họa sĩ Edcard Munch.

“KRYAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAA!!!”

“UWAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAA! TỔ CHA MÀY!”

Tôi hất cái đồng hồ mandrake xuống.

Nó vẫn tiếp tục rên rĩ sau khi bị hất xuống sàn nhà.

“Chậc, đồ giả rồi,” một người phụ nữ tặc lưỡi xuất hiện như thể cô ta quan sát mọi việc từ đầu đến đuôi.

Người đó là chủ cửa hàng và cũng là chủ lao động của tôi, Towako Setsutsu.

Từ ngữ mô tả thích hợp với chị ấy nhất có lẽ là người đẹp lạnh lùng. Cặp lông mày hoàn hảo, một ý chí mạnh mẽ toát ra từ đôi mắt, và một mái tóc đen nhánh dài chấm lưng. Vóc dáng hơi mảnh mai và cao hơn tôi một chút, với cơ thể trung bình của một học sinh trung học, càng làm vẻ ngoài chị ấy khá khiêu khích. Điều đó cũng đúng với bộ đồ đang mặc của chị: một áo sơ mi bó sát người, bên ngoài khoác một cái áo khoác và cái quần da mỏng làm nổi bật đôi chân dài của mình.

Tuy nhiên, hành động của chị ta không giống vẻ ngoài tẹo nào.

Không chỉ thu thập hàng tá thứ kỳ quái, chị ta còn thích thú khi thử nghiệm chúng lên tôi, như thể chị ấy là một đứa trẻ lên ba vậy.

Mà không phải chị ấy thu thập chúng như một sở thích.

Nhưng thứ chị ấy thu thập được gọi là Antique.

Không phải mấy thứ như đồ cổ hay mỹ thuật cổ, mà là những công cụ có sức mạnh đặc biệt được tạo ra bởi người cổ xưa hoặc pháp sư, hay những vật đã hấp thụ oán hận của chú nhân hoặc linh lực của tự nhiên.

Trong những câu chuyện cổ tích hoặc truyền thuyết, chúng thường là công cụ mang sức mạnh.

Ví dụ như hòn đá mang vận may, một con búp bê có mái tóc dài ra sau mỗi đêm, cái gương hiển thị hình ảnh tương lai của bạn, hay thanh kiếm sẽ hủy hoại ai rút nó ra khỏi vỏ.

Hầu như ai cũng từng nghe về sự tồn tại của chúng.

Tuy nhiên, mọi người chỉ xem chúng là sản phẩm tưởng tượng vì họ chưa từng nhìn thấy chúng, họ không nhận dù cho chúng có nằm ngay trước mắt họ, nếu có thứ gì bí ẩn xảy ra, họ sẽ xem đó chỉ là một vài sự trùng hợp ngẫu nhiên.

Một số không quan tâm, số khác thì cho rằng những thứ như thế không hề tồn tại.

Đáng tiếc thay, Antique lại có gần hơn chúng ta nghĩ.

Sở thích của chị ấy là thu thập những Antique như thế.

Mà thường thì, như lần này chẳng hạn, chị ấy lại bị gạt mua phải hàng dỏm, hàng nhái.

“Nhờ cái đồng hồ mandrake này mà một khoản tiền kha khá đã vụt bay về nơi xa…” Towako-san vừa than thở vừa tắt cái đồng hồ đang nằm mè nheo kia.

“Em chỉ tò mò thôi: nếu nó là hàng thật thì sao?”

“Chú mày sẽ tử ẹo chứ sao.”

“Vậy thì nó là đồng hồ báo tử chứ báo thức gì chứ?”

“Thôi nào, nó có phải là thứ kết thúc thế giới đâu mà.”

Có chứ sao không! Ít nhất thì nó “kết thúc” người nghe. Em vừa mất đi vài năm tuổi nhờ cái thứ quỷ này đấy…

“Mà chị về khi nào thế?”

Chị ta đã ra ngoài cả tuần cho thương vụ Antique này.

“Hử, vừa mới về thôi. Tokiya? Để cái này lên kệ đi.”

Towako-san bảo tôi thêm cái đồng hồ mandrake (GIẢ) này vào danh sách hàng hóa. Và nó góp phần tăng số lượng vật phẩm chẳng liên quan gì đến chữ “cổ” của cửa hàng.

“Để ở đâu đây ạ?”

“Đâu cũng được.”

“Sao chị không cân nhắc thiết kế một cái hệ thống cho cửa hàng đi?”

Tôi quay ra cửa hàng và để cái đồng hồ lên chỗ trống nào đó ngay cạnh một cái máy ảnh cũ. Vô tình đó lại là một cái máy ảnh (GIẢ) có thể chụp được quá khứ của người đứng trước ống kính.

Towako-san cũng bước ra cửa hàng và ấn vài nút ở quầy tính tiền khi đi ngang qua.

Nhìn thấy doanh số trong tuần của cửa hàng, chị ta nhăn mặt chua chát. Hóa ra chị ấy cũng có quan tâm chút đỉnh tới doanh thu đấy chứ.

Dù tôi khuyến khích chị ấy không nên thì tốt hơn.

“Chị còn mua gì nữa?”

”À, thật ra, lần này chị mày tìm được thứ hay lắm.”

Chị ta nhanh chóng xóa báo cáo doanh thu ra khỏi đầu và kể cho tôi nghe.

“Đó là một bức tượng chị tìm được ở một ngôi làng bị bỏ hoang hơn trăm năm về trước. Trông nó lố bịch kinh khủng, vậy mà nó được cho là có thể chữa bách bệnh đấy.”

“Có đúng vậy không?”

“Thật ra thì chưa có ai dám thử.”

“Nghe khả vãi cả nghi.”

“Chỉ có thế thôi thì chị cũng không mua làm gì. Nhưng lại có một truyền thuyết khác kể rằng bất cứ ai chạm vào sẽ dính một căn bệnh lạ và chết.”

“Vậy thì ngược hẳn với cái kia rồi còn gì?”

”Đúng thế. Một bên thì nói bức tượng có thể chữa lành mọi bệnh. Bên kia lại bảo sẽ giết người bằng bệnh tật. Em thấy sao? Không thấy cực kỳ phấn khích để tìm ra vì sao một bức tượng mà có tới hai truyền thuyết đối nghịch nhau sao?

“À thì, không phủ nhận được.”

“Chị đã tìm sẵn một số tài liệu liên quan để bắt đầu công việc ngay từ hôm nay. Chị giao cửa hàng cho chú em đấy.” Chị ta nói và quay đi. “A, quên mất!” chị ta bất ngờ nói, “Không được chạm trực tiếp vào bức tượng trước khi chúng ta biết tác dụng của nó là gì! Muốn chạm, nhớ dùng găng tay. Làm sai thì sống chết mặc chú em đấy.”

“Hiểu rồi.”

Tôi gật đầu và …. Đông cứng người.

Trước mắt hai người là đồng nghiệp của tôi, Saki Maino, đang giữ bức tượng bằng tay trần.

********************************

“Giết nó!”

“ Giết ả nữ quỷ đó mau!”

“Nó mang tai họa đến làng chúng ta!”

Hàng chục, hàng trăm tiếng hét giận dữ vang vọng bên ngoài đền. Hầu như toàn bộ dân làng đã vây kín đền.

Tại sao lại ra nông nỗi này? Tôi chỉ muốn cứu họ thôi mà.

Tôi đưa bức tượng trong tay ra trước mắt.

Nó là bức tượng có thể chữa lành mọi bệnh tật. Nó là bức tượng sư phụ đã phó thác cho tôi. Nó là bức tượng ngập tràn lòng nhân từ của ngài… vậy mà…

--  Nhất định ngài ấy đã để lại một lời nguyền.

Tôi nhớ lại lời nói của một người dân. Có đúng vậy không? Có đúng ngài ấy để lại một lời nguyền không?

Tôi muốn tin điều này không phải sự thật, rằng không phải như thế.

Tôi muốn tin ngài ấy không bao giờ làm chuyện như thế.

Bỗng dưng, tôi cảm thấy không khí quanh ngôi đền ấm dần lên. Thời gian này đang là giữa đông, và mùa xuân không thể đến bất ngờ được. Trong lúc tôi còn bối rối thì nhiệt độ của ngôi đền vẫn tiếp tục tăng.

Nhiệt độ lên cao hơn, và tôi có thể nghe thấy tiếng gỗ nứt ra.

Tôi nhanh chóng nhận ra nơi đây đang bị đốt.

Chẳng mấy chốc ấm áp chuyển dần sang nóng bức.

Tôi phải thoát khỏi đây.

Tôi đứng dậy và thấy người choáng váng, tôi ngã xuống và nôn ra những gì trào lên trong miệng.

Tôi nhanh chóng biết đó chính là máu của bản thân.

Gần đây, tôi nôn ra máu thường xuyên đến độ quá quen với việc này. Phải, tôi cũng thế, cũng đã bị nhiễm bệnh dịch.

Nhưng tôi quan tâm bức tượng hơn chuyện này.

Xin đừng để máu tôi làm vấy bẩn bức tượng.

Bằng tay áo mình, tôi lau sạch vết máu có thể bám vào bức tượng, sau đó tôi lại ôm chặt lấy bức tượng.

Tuy nhiên căn bệnh của tôi vẫn không được chữa khỏi.

Bức tượng có thể chữa lành mọi bệnh tật nay không còn hiệu nghiệm nữa.

Cái chết nào sẽ đến nhanh hơn? Chết do bệnh dịch hay chết do hỏa hoạn?

Nhận thức của tôi dần trở nên kém và mờ mịt đi do nhiệt độ bên trong lẫn bên ngoài.

Thời gian đã trải qua trong quá khứ vụt hiện về trong tâm trí trong khi tôi dần dần mất đi ý thức.

********************************

Tên của ngài là Juan.

Tuổi chỉ vừa mới ngoài ba mươi, nhưng tóc ngài đã bạc trắng hoàn toàn. Tuy nhiên, điều này không làm cho ngài trông già đi. Làn da của ngài cũng trắng như chưa bao giờ được tiếp xúc với mặt trời, nhưng nó càng tôn thêm vẻ thanh liêm của ngài.

Lúc đó, Juan-sama cư ngụ trong một ngôi đền bỏ hoang tận sâu trong núi đồi. Không ràng buộc bản thân với bất kỳ tôn giáo nào, ngài ấy chỉ đơn giản thờ phụng Bồ Tát.

Có những khi ngài cầu nguyện, có những khi ngài tạc tượng Bồ Tát, và có những khi- ngài chữa bệnh cho mọi người bằng bàn tay phải của mình.

Dân làng thường viếng thăm ngôi đền mỗi khi cần đến bàn tay phải diệu kỳ ấy.

Cuộc sống của họ không lấy gì là đầy đủ, đất đai cằn cỗi. Họ sống nương vào số ít diện tích đất có thể trồng trọt. Vì người dân không thể mua thuốc và ở đây cũng không có bác sĩ, bất kì ai mắc bệnh gì đều đến gặp ngài để nhận phúc lành từ bàn tay phải đó.

Triệu chứng của căn bệnh hoành hành ngôi làng bắt đầu bằng những cơn ho, tiếp đó là sốt cao, rồi bệnh nhân bắt đầu thổ huyết. Sau đó, bệnh nhân bắt đầu bị tê liệt, sinh khí dần dần mất đi và người đó qua đời.

Nhưng kể từ khi chủ nhân—và bàn tay phải thần kỳ của mình- đến ngôi làng, căn bệnh đã không còn tạo ra bệnh nhân nào nữa.

Tôi cũng vậy, cũng được nhận điều kỳ diệu từ bàn tay đó của ngài.

Cha mẹ tôi đã bỏ rơi tôi trên núi, và khi tôi đang ở bờ vực cái chết do cơn đói trong nhiều ngày hoặc do bị đông cứng dưới lớp tuyết dày, thì Juan-sama, trong hành trình chu du của mình, đã cứu sống tôi.

Mặc dù tôi không nhớ gì khi mình được cứu sống, tôi chỉ cảm  nhận được một cơn ấm áp hiền dịu ngập tràn cơ thể tôi và phục hồi sinh lực cho tôi.

Kể từ đó, tôi đã ở cùng với ngài và đảm nhận các công việc hàng ngày.

Tôi cũng không phải là người duy nhất muốn được bên cạnh Juan-sama nhưng ngài luôn khước từ những người khác.

Không phải vì lý do đặc biệt nào mà tôi lại là người duy nhất được ở bên cạnh ngài. Có khi ngài thấy xót thương cho tôi- một đứa con gái chưa bằng một nửa số tuổi của ngài nhưng không có ai để nương tựa.

Để báo đáp công ơn cứu mạng, tôi tình nguyện lau dọn ngôi đền, chuẩn bị bữa ăn và giặt giũ quần áo của hai người chúng tôi ngày từng ngày.

Vật được thờ phụng ở ngôi đền là một bức tượng Bồ Tát bằng vàng của Juan-sama. Do chính tay ngài ấy đẽo từ gỗ cây bách và dát vàng lên. Dù nó có kích thước chỉ bằng một con mèo hoang… so sánh như thế có hơi lỗ mãng. Nhưng vì tôi không được nhận sự dạy dỗ nào nên tôi không thể nghĩ ra được thứ gì tốt hơn.

Dù sao thì Juan-sama rất trân quý bức tượng, vì thế tôi cũng trân trọng nó.

Ngài ấy giữ gìn nó cẩn thận và cứu chữa người dân không nề hà. Khi cứu chữa, ngài thường giữ nó bên mình để nương vào sức mạnh bức tượng.

Nhiệm vụ đầu tiên trong ngày của tôi là lau chùi bức tượng thật sạch sẽ.

Mỗi buổi sáng tôi cẩn thận lau chùi nó bằng một cái khăn ngâm trong nước mùa đông.

“Xin lỗi vì để ngươi phải làm việc nặng nhọc này.”

Juan-sama thường bày tỏ lòng mình mỗi khi thấy tôi lau chùi hay giặt giũ bằng nước lạnh như đá.

Nhưng việc như thế chẳng đáng là gì. Đối với tôi, nước nóng hay nước lạnh đều như nhau.

Một phần lý do tất nhiên đến từ thái độ của tôi, nhưng hầu hết là vì bàn tay tôi đã trở nên tê cứng và da tay thì cứng như đá.

Có lẽ do tôi bị vùi quá lâu trong tuyết nên đôi tay gần như hoại tử. Ngay cả bàn tay phải của Juan-sama cũng không chữa lành được những phần đã chết.

Bàn tay ngài có thể chữa lành mọi vết thương hay bệnh tật, nhưng nó không thể mang cái chết trở lại. Do đó, nó không thể chữa lành những phần đã chết của cơ thể.

Dù vậy, cũng chính nhờ bàn tay đó, mà mạng sống của tôi vẫn còn tồn tại.

Tôi không thể tự do di chuyển ngón tay mình, nhưng tôi có thể cử động chúng chút ít. Giữ vật dụng bằng hai cánh tay cũng vẫn có thể, nên sau một thời gian làm quen, chuyện này không có khó khăn gì.

Tôi thấy thoải mái với những gì như hiện giờ.

Tuy nhiên-

“Ta xin lỗi. Phải chi ta tìm thấy ngươi sớm hơn…”

Hết lần này đến lần khác, ngài luôn vuốt ve dịu dàng đôi bàn tay này bằng đôi bàn tay của mình.

Chỉ những lúc đó, tôi ước chúng vẫn còn cảm giác…

Khi nãy tôi đã nói bàn tay phải thần kỳ của ngài như được thần tiên Trời Phật ban phép, nhưng bản thân tôi không tin rằng có Trời Phật thật sự.

Nếu họ không thể cứu một ngôi làng khỏi bệnh dịch hay một đứa trẻ bị bỏ đói giữa nơi không người, vậy thì việc ngài ấy tồn tại hay không không thành vấn đề. Và vì nếu không thành vấn đề thì ngài ấy cũng có thể không tồn tại.

Do đó, ngài là Trời Phật đối với tôi.

Nếu ngài ấy, người đã cứu một ngôi làng khỏi bệnh dịch và một đứa trẻ khỏi chết đói giữa nơi không người, không phải Trời Phật, thì còn có thể là ai?

Nhưng khi nghe tôi nói thế, ngài ấy lại răn đe tôi không được xàm ngôn như vậy.

Vì thế tôi đã ngưng nói như thể, ngay cả nghĩ trong đầu cũng không dám.

Có một lần, tôi hỏi về bàn tay phải của ngài.

Hóa ra, mọi chuyện bắt đầu bằng một giấc mơ.

Ngài ấy bị đứt tay bởi thứ gì đó giống như mảnh vỡ vỏ ốc và bị sốt cao, đưa ngài đến bờ vực cái chết trong nhiều ngày liên tiếp. Nhưng một ngày nọ, một vị Phật xuất hiện trong giấc mơ của ngài và chạm vào má ngài ấy bằng bàn tay phải của mình.

Dù chỉ là trong mơ, nhưng ngài ấy cảm thấy cơ thể mát mẻ hơn.

Cuối cùng, trước khi rời đi, vị Phật chạm vào bàn tay phải của Juan-sama và bảo ngài ấy hãy cứu giúp người dân.

Ngày hôm sau tỉnh lại, cơn sốt của ngài đã biến mất.

Điều đầu tiên ngài làm sau khi tỉnh dậy là chạm vào một con két bị gãy cánh.

Ai cũng cho rằng con két sẽ không bao giờ có thể vỗ cánh trở lại, nhưng khoảnh khắc ngài chạm vào nó, con két cất cánh bay thẳng lên trời.

Lúc đó ngài ấy nhận ra rằng vị Phật đã bao cho bàn tay ngài một sức mạnh.

Cùng lúc đó, ngài nhận ra cứu giúp người dân là nghĩa vụ của mình.

Sau đó ngài chu du từ nơi này sang nơi khác, tạo ra phép màu và cứu giúp người dân.

Nhưng cuộc sống không bao giờ đi theo hướng ta muốn.

Sức mạnh bí ẩn của ngài không chỉ mang đến niềm hạnh phúc, mà mang đến cả nghi ngờ và sợ hãi.

Ngài cứu càng nhiều người, thì sức mạnh của ngài càng bị xem như một lời nguyền, và việc ngài bị xua đuổi đi nơi khác do người dân lo sợ ngài là một con yêu giả dạng người không phải hiếm.

Nếu ngài cũng bị xua đuổi ở nơi này, tôi sẽ lại theo bước như bao lần trước.

Chỉ cần được ở bên cạnh Juan-sama là tôi thấy đủ hạnh phúc rồi.

Ý nghĩ rời xa ngài chưa bao giờ xuất hiện trong tôi.

Ngược lại với lo lắng của tôi, chúng tôi vẫn  sinh sống trong an bình.

Dân làng ở đây chấp nhận chúng tôi.

Tôi thầm cầu mong chúng tôi có thể ở đây lâu hơn nữa.

Tôi thích cuộc sống nơi này và muốn nó kéo dài mãi.

- nhưng có một điều làm tôi lo lắng.

Gần đây, chủ nhân tôi bắt đầu ho nhiều hơn.

Triệu chứng tương tự như những dân làng tìm đến ngài để được chữa bệnh.

Khi tôi nói ngài nên dùng tay phải tự chữa cho mình, ngài chỉ cười và bảo tôi nói thật có lý.

********************************

Bức tượng có thể gói gọn trong một từ, quái đản.

Thật khó để biết được nó được làm chính xác từ chất liệu gì. Nó vừa giống sắt bị gỉ, lại vừa giống đồng bị oxy hóa, nói nó là gỗ mục cũng không sai. Bức tượng có màu đỏ khô, đậm, cao khoảng 50cm, bề ngang rộng hơn hai bàn tay của tôi chút đỉnh.

Hình dáng của nó, là thứ làm tôi nhức nhối nhất. Trông nó không giống hình dáng một vị Phật hay một con ác quỷ nào. Càng nhìn càng trừu tượng, nó cho người ta cảm giác như đang nhìn những khuôn mặt trên tường hay trên thân cây.

Tạm thời thì chúng tôi để bức tượng, thứ chẳng khác đồ vật nghệ thuật trang trí trong phòng, trong một lồng kính búp bê ở phòng khách.

Còn Saki, người đã chạm vào bức tượng trong khi tôi được dặn dò không được thì:

“Xin chào- hắt xì. Quý khách cần chi- hắt xì? Cảm ơn đã ghé cửa hàng- hắt xì!”

Cô ấy đang làm việc của mình như thường lệ, nhưng lúc nào cũng hắt hơi và trông như sắp đổ bệnh. Nhân tiện, vị khách lúc nãy, nhanh chóng nhận ra sai lầm của bản thân ngay giây phút mở cửa đã vội vàng xoay 180 độ. Tổng thời gian của vị khách đầu tiên ghé vào cửa hàng trong ngày hôm nay là một giây.

“Em bệnh à?” Chẳng có gì khác để làm nên tôi đành phải hỏi cô ấy như thế.

“Chắc là vậy- hắt xì. Em thấy người không được khỏe từ hôm trước rồi – hắt xì. Nhưng em không ngờ là nó có thể trở nặng như vầy- hắt xì.”

Ngồi nhìn vẻ mặt vô cảm của Saki thay đổi liên hồi, dù đó chỉ là hắt hơi, cũng thú vị thật.

Nhân tiện, “hắt xì” cũng có nhiều kiểu. Có những kiểu uể oải như “ka-chu” hay “bu-shu”, nhưng cũng có kiểu thoải mái như “hắt xì”. Dân kinh nghiệm thì thích dạng “chiku-sho” (khốn thật), tất nhiên, chỉ có đàn ông mới thích như thế.

Đàn ông thì không nói tới, vì chẳng ai thèm quan tâm. Nhưng nữ giới lại khác, họ có thể pha trộn sự đáng yêu của mình vào cách hắt hơi. Và cái tôi thích chính là kiểu “ku-shon”.

Nói như thế thì cách hắt xì của Saki cũng khá đạt...

“…”

Cảm thấy một cái nhìn lạnh lẽo, tôi liền trở lại với thực tại, và đúng là Saki đang nhìn tôi với ánh mắt lạnh như băng.

“Gì vậy?”

“Anh lại suy nghĩ vớ vẩn gì nữa à?”

“Em có thể gạch phần ‘vớ vẩn’ đi đấy.”

Thật tình, làm việc cùng nhau được một năm nên cô ấy có thể đoán được tôi đang nghĩ cái gì.

Nhưng còn gì được nữa chứ. Lúc này chẳng có gì để làm nên tôi đành ngồi nghĩ mấy thứ vớ va vớ vẩn. A… tôi vừa thừa nhận nó là vớ vẩn rồi.

“Nếu Towako-san thấy anh- hắt xì, đang vui chơi trên chín tầng mây-hắt xì, chị ấy sẽ trừ lương cho xem-hắt xì!”

“Chị ta nhốt mình trong phòng rồi, không lo không lo.”

Towako-san đã ngồi lì trong phòng đọc hết các tài liệu liên quan cũng được ba ngày rồi.

Theo lời Towako-san thì, bức tượng có khả năng chữa lành mọi căn bệnh, nhưng chứng kiến nó không chữa nổi cơn cảm lạnh của Saki, thật hết hy vọng. Còn sự tích kia, về việc nó gây một căn bệnh nan y: tôi cũng chưa bao giờ nghe nói một căn bệnh nan y nào bắt đầu triệu chứng bằng hắt hơi cả. Thế nên hướng này cũng chẳng hy vọng gì.

Trong lúc chị ta không chịu thừa nhận nhưng mọi thứ đang dần khẳng định chị ấy lại một lần nữa mua phải hàng giả rồi.

“Tất cả rồi sẽ về với cát bụi.”

“Tuổi thọ của chị sắp hết rồi à?”

Sau một khoảng thời gian vắng mặt, Towako-san mò ra khỏi phòng, vừa vỗ vai tôi vừa uống chai nước vitamin chiết xuất từ cà rốt. Tóc chị ấy được cột ra sau, có lẽ để chúng không cản trở, mắt thì nửa mở nửa nhắm, chắc do thiếu ngủ. Cơ thể chị ấy toát ra cảm giác như thể nó sẽ gục ngã bất kỳ lúc nào nếu nó không được nghỉ ngơi ba ngày liên tục.

“Chị không thể nói gì người khác được na. Thế, có gì mới không?”

“Hmm… ta chỉ mới đọc qua thôi, nên chưa nói gì được, nhưng ta tìm được một thứ.”

“Là?”

“Bức tượng vốn được dùng như một vật thờ phụng ở vài ngôi đền.”

“Cái thứ xấu xí ấy á?”

“Chúng không nhất thiết phải là tượng phỏng theo hình dáng của Bồ Tát hay Bồ Đề Đạt Ma. Chẳng phải có trường hợp người ta thờ phụng cái thứ đàn ông hay mặc giữa hai chân hay sao? Chúng đều có ý nghĩa của riêng bản thân chúng và đó mới là điều quan trọng.”

“Vậy thì thứ này có ý nghĩa gì?”

“Chịu. Nhưng có một câu chuyện thú vị khác kể rằng vị sư ở ngồi đền đó có khả năng thần kỳ là có thể chữa bất kỳ bệnh tật bằng cách chạm vào bệnh nhân.”

“Sao giống y chang bức tượng thế?”

“Cũng có vài câu chuyện minh chứng cho việc này. Có một đứa trẻ khỏe mạnh trở lại sau cơn sốt thật tử nhất sinh sau khi ông ta chạm vào nó, hay một người đàn ông rơi từ trên mái nhà xuống và bị gãy chân. Nhưng khi sư thầy tới chạm vào thì xương ông ta lành trở lại và ông ấy đi lại bình thường. À phải rồi, cái này mới hay này: có một lần ngôi đền phân phát cháo nấm cho dân làng, sau đó mọi người đều bị ngộ độc do nấm dùng nấu cháo là nấm độc. Rồi sư thầy lại đến chạm vào họ, và mọi người đi lại như chưa có chuyện gì xảy ra.”

“Nghe khả nghi thật đấy. Giống như trò lừa đảo của mấy giáo phái tà ma ấy.”

“Ờ, để lôi kéo tín đồ thì giả dạng người tu hành có sức mạnh thần bí là trò lừa gạt thường thấy nhất. Nhưng cái làm ta quan tâm là có khá nhiều chuyện kể như thế này.”

Tôi nhìn cửa hàng.

Dựa vào tình hình của Saki, người đang ngồi ho sau quầy tính tiền, thì tôi vẫn xem bức tượng là hàng giả. Chắc chỉ vài ngày tới thì kệ trưng bày của cửa hàng sẽ có thêm thành viên mới đây.

“Saki, em nghỉ giải lao đi.” Tôi nói nhưng không nghe thấy tiếng trả lời sau quầy tính tiền. “Saki?”

Khi tôi tới vỗ nhẹ lưng cô ấy, thì cô ấy ngạc nhiên nhìn tôi bằng cặp mắt ươn ướt, cô ấy tính nói gì đó nhưng bị cơn ho chặn lại.

Ho? Hình như lúc nãy cô ấy hắt hơi mà?

“Saki, em không sao đấy chứ?”

“Em ổn.” Cô ấy trả lời tỉnh bơ như bình thường nhưng lại ho ngay tức thì.

Hình như cơn cảm lạnh vừa mắc phải của cô ấy đang trở nên nghiêm trọng hơn.

“Dù sao thì, anh sẽ coi cửa hàng tiếp cho, em vào trong nghỉ đi.”

Saki im lặng suy nghĩ một chút, nhưng rồi cô ấy thì thầm bằng giọng khàn khàn, “Vâng,” và đứng dậy. Cô ấy loạng choạng và dựa vào tôi. Trán cô ấy chạm vào người tôi. Có hơi nóng.

“Này… em cảm thấy tệ đến thế này sao?”

“Hai anh chị vui lòng tán tỉnh ở nơi khác nhé.” Towako-san nói.

Từ vị trí của chị ấy, chắc chúng tôi nhìn giống một đôi đang âu yếm nhau lắm.

“Hình như Saki trúng gió rồi đấy! Này, cố gắng lên nào!”

Tôi vỗ vỗ vào má Saki để cô ấy tỉnh táo chút. Gật đầu yếu ớt, Saki đi vào phòng nghỉ.

“Có khi nào là do căn bệnh không chữa được của bức tượng không nhỉ?”

“Không thể nào,” tôi gạt phăng câu nói đùa của Towako-san.

“Không thể nào…”

********************************

Cơn ho của ngài càng lúc càng nặng thêm. Trán của ngài nóng như lửa đốt. Juan-sama lại thỉnh thoảng làm rơi vỡ đồ đạc.

Triệu chứng đó cho thấy đó chính là căn bệnh truyền nhiễm đang hoành hành ở ngôi làng này.

Thảm họa dịch bệnh năm nay lan rộng ra khắp khu vực và người bệnh thì xếp hàng dài đằng đẵng trước cửa đền.

Juan-sama ngày đêm lo chữa trị cho họ.

Tôi chắc chắn ngài ấy đặt vấn đề chữa bệnh cho dân làng trên bản thân mình.

Dù rất tôn trọng, khâm phục ngài, nhưng tôi vẫn trách.

Ai sẽ trông nom cho dân làng nếu ngài có mệnh hệ gì?

Đó là lời nói dối.

Tôi không quan tâm gì tới ngôi làng cả.

Chỉ là tôi không muốn thấy ngài ấy phải đau khổ.

Nhưng Juan-sama vẫn không chịu chữa cho bản thân.

Một ngày nọ, triệu chứng của bệnh dịch bắt đầu xuất hiện trong người tôi. Cơn ho thời kỳ đầu không cho tôi yên ổn phút giây nào, và dần tôi bắt đầu lên cơn sốt. Chẳng bao lâu cơ thể tôi bắt đầu tê liệt.

“Lại đây, ta sẽ chữa cho em.”

Juan-sama hướng người về phía tôi và đưa bàn tay phải ra.

Tuy nhiên, tôi kháng cự.

Một thoáng ngạc nhiên xuất hiện trên mặt ngài.

“Xin ngài đừng lo lắng cho cơ thể này.”

“Em nói gì thế?”

“Xin ngài hãy chữa cho bản thân trước.”

“Ta vẫn còn khỏe lắm.”

“Khỏe sao? Chẳng phải ngài ho mãi không ngừng sao? Chẳng phải ngài đang bị sốt cao sao? Ngài còn chẳng thể di chuyển được nữa. Ngài nghĩ rằng em không nhận ra sao?”

“Có thể em không tin nhưng cơ thể ta khỏe hơn bề ngoài nhiều. Qua một thời gian là nó sẽ khỏi bệnh thôi. Cơ thể ta, ta biết rõ hơn ai hết. Ta quan tâm đến em hơn. Nào, lại đây, hãy để ta chữa cho em.”

“……”

“Nào, đừng để ta lo lắng.”

Khi nghe hai chữ “lo lắng”, tôi gần như làm theo lời ngài ấy. Vì tôi không muốn Juan-sama phải bận tâm. Tôi không muốn thấy vẻ mặt lo lắng của ngài.

Cho dù như thế, tôi vẫn kháng cự.

Nếu tôi chấp nhận để ngài ấy chữa trị, ngài ấy lại tiếp tục trì hoãn cho bản thân. Hình như Juan-sama sợ rằng số lần sử dụng bàn tay phải có giới hạn, nên ngài không dám dùng một lần cho bản thân mình.

Nếu đúng là như thế, tôi càng phải bắt ngài tự chữa cho bản thân hơn.

“Dù ngài nói gì đi chăng nữa, em sẽ không để ngài chữa cho em trước bản thân ngài.”

Khi nhận ra quyết định của tôi không thể lay chuyển, cuối cùng ngài cũng cho tôi biết.

Rằng ngài không thể tự chữa cho mình bằng bàn tay phải diệu kỳ ấy.

********************************

Ba ngày đã trôi qua.

Ba ngày trôi qua và không có dấu hiệu tiến triển nào cho tình trạng của Saki.

Cơn ho dai dẳng không dứt, cơn sốt mãi không hạ. Suy nghĩ của cô ấy bắt đầu bị rối loạn,  khi cô ấy không còn có thểtự mình thay quần áo và hay làm rơi muỗng mỗi khi ăn.

“Hm… trông thảm thật.” Towako-san than thở khi chị ấy rời phòng Saki sau khi giúp cô ấy thay đồ.

“Saki thấy khó chịu trong người sao?”

“Hử? À, cái đó cũng đúng, nhưng ta đang lo phiền về cái khác cơ. Hết đồ sạch để thay rồi….”

“Hả?”

“Cứ nhìn đi, ta giao mọi việc nhà cho Saki mà. Đồ sạch của con bé đã hết. Vì thế, của ta cũng hết theo.”

“Chị không giặt chúng sao?”

“Giặt giũ thì ta không giỏi lắm.” Chị ta tự hào giải thích.

Tôi chỉ biết úp mặt vào tay.

“Hay ta bàn giao lại cho chú nhỉ?”

“Cảm ơn, em xin từ chối.”

“Ế? Chú em không phải lúc nào cũng có cơ hội giặt đồ của hai người con gái đâu đó. Trong đó có đồ ngủ và đồ lót luôn đấy!”

“Em cương quyết từ chối.”

“Sao chú mày cứng đầu thế.”

“Em không muốn gánh thêm phiền phức đâu.”

“Hm, tùy chú em vậy. Saki-chan vừa thức dậy đấy, vào thăm con bé đi. Nhưng đừng ngồi lâu quá đó nghe không?”

Towako-san quay đi với quần áo của Saki trên tay, trong khi tôi thì bước vào phòng cô ấy.

Đây không phải lần đầu tiên tôi vào đây, nhưng nó luôn tạo cảm giác lạ lẫm cho tôi. Với một không gian hầu như không có vật dụng gì, ngược hẳn với không gian bừa bộn của cửa hàng. Trong đây chỉ có một cái bàn, một cái rương và một cái giường. Không có áp phích hay hình trang trí gì.

Saki hầu như lúc nào cũng mặc toàn đồ đen, nhưng căn phòng lại sơn màu trắng. Trong trường hợp này, căn phòng tạo cảm giác như đang ở trong bệnh viện.

“Anh làm gì nhìn chăm chú xung quanh thế?” Saki phàn nàn trong khi thò nửa đầu ra khỏi mền.

“Chỉ quan sát căn phòng trống trải, lạnh lẽo này thôi. Em có muốn anh mang cái đồng hồ mandrake cho lần viếng thăm kế không?”

”Không thèm.”

“Anh cũng thế.” Tôi đùa và ngồi vào chiếc ghế bên cạnh giường cô ấy, hẳn Towako-san đã ngồi đây. “Em thấy trong người thế nào?”

“Kinh khủng.”

“Cho chừa tội ráng làm việc khi cơ thể đang mang bệnh.”

Một cái khăn thấm nước lạnh được đặt trên trán cô ấy để hạ nhiệt độ. Tôi nghịch ngợm với suy nghĩ viết chữ “Thịt” lên cái khăn đó nhưng nghĩ lại thì thấy trò này xưa quá rồi nên thôi.

Tuy nhiên, khi thấy tôi đưa tay ra, Saki cảm nhận được nguy hiểm nên nhanh chóng rút vào trong chăn.

“Anh không làm gì đâu.”

“Không phải vậy.”

Cô ấy thò đầu ra nhìn tôi.

“Em chưa tắm,” cô ấy thì thầm nhỏ đến nỗi tôi khó khăn lắm mới hiểu được.

“Hử? Nhưng người em đâu có hô…”

Tôi nhận được một cú đấm giữa mặt khi đưa mũi tới gần người cô ấy. Không ngờ người bệnh vẫn có thể đấm mạnh được như thế.

“Em xin lỗi.”

”Vì? Đấm anh?”

“Vì không làm việc. Em nghỉ liên tục ba ngày rồi.”

Có lẽ cơn sốt làm cô ấy dễ tính hơn thì phải, Saki xin lỗi khá lịch sự.

“Không có gì. Cũng chẳng có bao nhiêu việc mà.”

“Towako-san mà nghe được sẽ nổi giận đó.”

“Nhưng chị ta đâu có nghe nên sẽ không có chuyện gì đâu.”

“Nếu có thì sao?”

Tôi giật mình quay lại thì thấy Towako-san đã trở lại tự khi nào. Trên tay chị ấy là chai nước khoáng, sau khi quăng nó cho tôi và bảo tôi tí nữa đến gặp chị ấy, Towako-san rời đi.

“Em đã bảo rồi… anh quá sơ ý.”

Saki cố gắng mở chai nước khoáng PET tôi đưa nhiều lần nhưng không được. Có vẻ cơ thể cô ấy không còn tí sức lực nào. Tôi lấy lại và mở nắp chai giúp cô ấy.

Saki ngồi dậy và uống ừng ực để thỏa mãn cơn khát của mình.

Và, tôi giật mình ngạc nhiên khi nhận ra thứ cô ấy đang mặc.

“Gì vậy?”

“Không có gì, chỉ là hơi ngạc nhiên khi thấy em mặc loại quần áo này.”

Hiện giờ cô ấy đang mặc một bộ pajama màu nâu, nhìn như bộ đồ hóa trang.

Nếu cô ấy kéo qua khỏi đầu thì trở thành một con chồn tanuki hoàn hảo.

“Towako-san không còn bộ nào khác… sao thứ này không phải màu đen chứ?”

“Em lo lắng về màu sắc cơ á?”

“Còn gì nữa à?”

“Ờ thì làm gì có con chồn tanuki nào màu đen? Cánh cụt thì hợp hơn đấy.”

“Không được, chim cánh cụt có bụng màu trắng.”

Cái vẻ mặt “anh không biết sao?” kia là sao đấy? Tanuki cũng có bụng màu trắng vậy.

Khi tôi chỉ ra như thế, cô ấy nói, “Anh nói cũng phải. Em sơ ý thật.”

Đó không phải lý do chính để cô ấy cảm thấy xấu hổ, có vẻ như niềm yêu thích màu đen của cô ấy không có chỗ dành cho thương lượng thì phải.

“À, ừm, bỏ qua bộ pajama đi. Em nên tập trung nghỉ ngơi đi. Anh chắc là ngày mai em sẽ cảm thấy tốt hơn đấy.”

“Uhm.”

Vì không muốn làm phiền cô ấy hơn nữa, tôi đứng dậy và bước ra cửa.

“A, khoan đã.” Saki ngăn tôi lại.

“Sao? Còn gì à?”

“Không, chỉ là…” cô ấy quay mặt về hướng khác khẽ nói càng làm tôi khó nghe hơn, “… cảm ơn anh.”

Cơn sốt chắc là nguyên nhân khiến hai má cô ấy đỏ bừng như vậy.

Để che đi cơn xấu hổ, Saki vội vã đưa chai nước lên môi nhưng ngay lập tức cất tiếng ho khan làm nước văng khắp chăn.

“Bình tĩnh, bình tĩnh.”

Tôi nghi cô ấy bị sặc nước nên bật cười, nhưng có thứ gì đó thu hút ánh mắt của tôi.

Nhưng đốm đỏ xuất hiện trên chăn cô ấy.

“A?”

Tôi không nhận ra ánh mắt mình đã chuyển sang cô ấy khi nào.

Một màu đỏ dính trên lòng bàn tay, nơi cô ấy dùng để che miệng.

********************************

Juan-sama chỉ dạy cho tôi chi tiết về bàn tay phải của ngài.

Tôi được biết rằng bàn tay đó không phải chữa bệnh hay vết thương gì, nó chỉ là vật trung gian để ngài ấy truyền sức sống của mình sang.

Nói cách khác, nếu sức sống là nước thì bàn tay của ngài như cái gàu múc sức sống vậy.

Sức sống ngài ấy truyền cho đối tượng sẽ hoạt tính hóa sức sống của đối tượng, cho phép người đó hồi phục dựa vào chính khả năng hồi phục của bản thân.

[Chú thích: “Hoạt tính hóa” là tác động ảnh hưởng đến quá trình sinh hóa của cơ thể.]

Đó cũng là lý do vì sao ngài ấy không thể hồi sinh người chết, hay những phần cơ thể đã chết do bỏng hay hoại tử.

Vì những phần đó không còn sức sống để hoạt tính hóa.

Vì thế Juan-sama không thể tự chữa cho bản thân

Lượng sức sống không hề thay đổi khi bàn tay phải chạm vào người ngài.

Lúc đó tôi nhận ra việc chữa trị của ngài đồng nghĩa với tự sát.

Juan-sama bảo lượng năng lượng dùng chữa trị khá nhỏ nên chỉ cần một bữa ăn và một ngày nghỉ ngơi là đủ.

Do đó cứu chữa người dân không phải tự sát.

Tuy nhiên, chữa trị bằng cơ thể yếu ớt kia không gì khác tự sát.

Từ ngày tôi biết được việc này, tôi bắt đầu từ chối những người đến tìm kiếm bàn tay phải của Juan-sama.

Tôi muốn ngài ấy được nghỉ ngơi.

Tôi giải thích kỹ càng sự việc cho người dân.

Rằng Juan-sama đã bị nhiễm cùng căn bệnh với dân làng.

Rằng ngài ấy không thể tự chữa cho bản thân. Và tôi cũng hứa rằng sẽ để họ gặp lại ngài ấy ngay khi Juan-sama hồi phục.

Lúc đầu, họ nghe theo, nhưng rồi, họ bắt đầu nghi ngờ.

Họ đồn rằng chúng tôi khư khư giữ lấy sức mạnh của ngài vì vàng bạc.

Họ đồn rằng chúng tôi chỉ chữa cho những ai nhiều tiền.

Họ đã quên đi công lao Juan-sama đã làm và bắt đầu lan truyền ác ngôn do chính họ tạo ra.

Tôi quyết định càng phải giữ Juan-sama tránh càng xa người dân hơn.

Ngài ấy là tất cả những gì tôi quan tâm.

Tất nhiên tôi đã không báo lại cho ngài toàn bộ sự việc.

Tôi nói rằng dịch bệnh đã không còn và người dân cực kỳ khỏe mạnh.

Tim tôi đau nhói khi thấy vẻ mặt hạnh phúc vui vẻ của ngài, nhưng tôi cắn răng chịu đựng, đâm lao thì phải theo lao.

Tinh thần ngài được an ổn, nhưng tình trạng cơ thể càng ngày càng tồi tệ--- ngài không ngừng ho khan, cơn sốt không có dấu hiệu giảm--- và cuối cùng, ngài khó có thể tự ăn hay đi đứng được.

Một ngày nọ, Juan-sama bỗng dưng tiếp tục đẽo tượng Bồ Tát bằng đôi tay gần như tê liệt của mình.

Ngài ấy dùng búa và dùi đục đẽo lên bức tượng mà ngài rất trân quý.

Khi tôi hỏi, ngài trả lời rằng muốn làm bức tượng càng gần với hình tượng vị Bồ Tát mà ngài đã thấy trong mơ.

Juan-sama cho rằng bức tượng vẫn chưa hoàn thành cho dù trong mắt tôi, đó đã là một bức tượng tuyệt hảo.

Ngày sang ngày, Juan-sama cuốn vào việc đẽo tượng của mình đến tận khuya.

Như thể ngài không muốn phí phạm một ngày, một giờ, hay một phút một giây nào.

Ngài làm việc như có gì đó thúc hối mình.

Tôi không dám nghĩ gì về thứ đang thúc giục ngài.

Ngài ấy không chịu nghe gì khi tôi lo lắng cho cơ thể của ngài.

Xung quanh ngài tỏa ra bầu không khí oai nghiêm.

Đẽo một bức tượng Bồ Tát là bày tỏ lòng thành kính của bản thân vào Bồ Tát.

Có lẽ ngài ấy đang cầu xin Bồ Tát cứu rỗi mình bằng việc đục đẽo bức tượng như đục đẽo sinh mạng mình.

Juan-sama có thể cứu mọi người nhưng không ai có thể cứu ngài ấy.

Người duy nhất có thể chính là Bồ Tát.

Hành động của ngài là hành động của lòng tin tưởng. Từng nhát búa, nhát dao như bằng chứng cho niềm tin vào Bồ Tát của ngài.

Tuy vậy, hết lần này đến lần khác, trong mắt tôi, cứ như ngài ấy đang giáng những nhát kiếm vào Bồ Tát.

Có gì đó không đúng với mắt của tôi rồi.

Vài ngày sau.

Juan-sama đã hoàn chỉnh bức tượng của mình.

Gương mặt bức tượng trong veo như mặt hồ không một gợn sóng, bình yên như bầu trời không một bóng mây.

Vẻ hối hả hay trang nghiêm của Juan-sama đều không xuất hiện trên bức tượng.

Chỉ khi nhìn bức tượng hoàn chỉnh, tôi mới thấy được cái không hoàn chỉnh của nó. Dù tôi không được dạy dỗ nhưng vẫn nhìn thấy bức tượng là kết quả của một nghệ nhận tài năng.

Nhưng điều vi diệu nhất trong mắt tôi là hình dạng bức tượng phỏng theo Juan-sama.

Đó chính Juan-sama đã xuất hiện trước tôi khi tôi mở mắt trong lúc nằm chờ cái lạnh và cái đói mang đi.

Chắc hẳn ngài sẽ phủ nhận việc đó.

Nhưng bức tượng không phải là ai khác ngoài Juan-sama.

Tất cả của ngài nằm trên đó.

Đó là hình tượng của bản thân ngài.

- Tuy nhiên, khi hoàn thành bức tượng, cơ thể đã đến mức không thể rời khỏi giường được nữa.

Ngài ấy cũng bắt đầu ho ra máu, và máu ngài thường dính vào tôi mỗi khi tôi chăm sóc.

Lúc ấy, ngài thường xin lỗi vì làm tôi lem luốc, dùng tay phải lau chùi vết máu.

Bằng bàn tay phải ốm yếu như cành cây chết khô.

Tôi không thể ngăn nước mắt của mình mỗi khi nhìn thấy cơ thể yếu ớt đó.

Không biết từ khi nào, tôi không chịu đựng nổi hình ảnh đó của ngài.

Tôi biết phương pháp để cứu ngài ấy nhưng lại không thể mở miệng nói nên lời.

Một ngày kia, ngài ấy nói với tôi:

“Hãy cắt đứt bàn tay phải của ta.”

Tôi---

Tôi--- không biết lấy gì vui sướng hơn.

Juan-sama có cùng suy nghĩ với tôi.

Tôi sung sướng không nói nên lời khi biết ngài cũng suy nghĩ như thế.

Tôi chạy đi lấy cái dùi ngài dùng để đẽo bức tượng và giáng nó xuống cánh tay phải của ngài.

Giáng xuống, giáng xuống, giáng xuống và giáng xuống, giáng xuống, giáng xuống.

Mặt tích cực duy nhất là ngài ấy không còn cảm thấy đau đớn nữa.

Sau khi giáng cái dùi xuống chục lần, cuối cùng tôi cũng tách rời cánh tay phải của ngài thành công.

Sau đó tôi cầm cánh tay lên và chạm vào Juan-sama

Nếu ngài ấy không thể tự chữa lành cho mình bằng bàn tay của mình, tôi chỉ việc làm cho nó không còn là bàn tay của ngài nữa là xong.

Nếu nó không phải bàn tay của ngài, nó có thể chữa cho ngài ấy giống như bao người khác.

Sinh lực của tôi có thể thông quá bàn tay phải này mà truyền tới ngài.

Miễn là ngài ấy hồi phục, chuyện gì xảy ra với tôi cũng được.

Từng giọt sinh lực này sẽ là của ngài ấy.

-- Nhưng căn bệnh của Juan-sama vẫn không được chữa trị.

Tại sao?

Tại sao sinh lực của tôi không truyền sang cho ngài ấy?

Như thế là không đúng.

Như thế là không được.

Bây giờ bàn tay phải không còn là của ngài ấy nữa, thì nó phải cứu được ngài chứ.

Bây giờ bàn tay phải không còn là của ngài ấy nữa, thi nó phải có được khả năng cứu ngài chứ.

Juan-sama đang nhìn lên tôi.

Juan-sama đang cố gắng nói gì đó.

“!!!”

Tôi gào lên khi nhìn xuống Juan-sama.

Máu đang phun ra từ cùi chỏ của ngài. Sinh lực của ngài đang tuôn ra.

Khụy gối xuống sàn nhà, ngài ngước lên nhìn tôi.

Tại sao ngài ấy mất cánh tay?

- Vì tôi đã chặt đứt nó.

Tại sao ngài ấy lại phải quỳ gối?

- Vì tôi đã chặt đứt nó.

Tại sao ngài ấy đang chết dần?

- Vì tôi đã chặt đứt nó.

“AAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAA!!!!!”

Kinh hãi với việc tôi vừa làm, tôi lao ra khỏi đền.

Tôi đã làm gì thế này?

Tôi đã nghĩ tôi có thể cứu Juan-sama.

Đó là tất cả những gì trong đầu tôi.

-- Tôi đã không nghĩ tới khả năng thất bại.

Tôi cầu cứu dân làng.

Nhưng do từng từ chối giúp đỡ họ, không một ai giúp tôi.

Họ chỉ biết la hét khi nhìn thấy vết máu bám trên người tôi. Tuy nhiên, có một bà lão chịu nghe lời kêu cứu của tôi.

Bà ấy là bà của một đứa trẻ mà Juan-sama đã từng cứu. Không như những người khác, bà ấy lo lắng cho Juan-sama, không oán hận gì ngài khi ngài mắc bệnh và không tiếp tục công việc cứu chữa của mình.

Tôi dẫn bà vào đền.

Bà lão khụy xuống ngay khi trông thấy cảnh tượng kinh hoàng.

Nằm trong vũng máu của mình không gì khác cơ thể bệnh tật của Juan-sama.

Bên cạnh là bức tượng Bồ Tát đang nhìn xuống ngài trên cái giường tử thần.

Tôi tiến lại xác chủ nhân và ôm lấy nó.

Tôi nhận thấy một mảnh giấy trong chiếc áo kimono của ngài.

Vì tôi không biết đọc, tôi đã nhờ bà lão đọc giúp.

Khi biết suy nghĩ của ngài không giống như tôi, tôi vỡ òa ra khóc.

Kể từ ngày đó, tôi đã mù lòa.

********************************

“Ho, sốt cao, cơ thể tê liệt, khó khăn khi di chuyển… rất tương đồng,” Towako-san nghiêm mặt nói.

“Tương đồng với cái gì?”

“Với bệnh dịch được nhắc tới trong các câu chuyện liên quan tới bức tượng.”

“Nếu bức tượng đó là một Antique gây ra căn bệnh này, chúng ta phải làm thế nào đây?”

“Chị e là chị chưa tìm thấy trường hợp nào chữa khỏi căn bệnh do bức tượng gây ra cả.”

“Nếu” gì nữa chứ. Chấp nhận đi. Nó là đồ thật đấy. Thứ trước mắt chị là một Antique lây nhiễm căn bệnh không thể chữa khỏi cho bất kì ai chạm tay vào nó.

“Đừng có nhụt chí! Chị đã nói là ‘chưa tìm thấy’. Chị sẽ tìm hiểu các tài liệu khác.”

“Em sẽ giúp chị.”

Nếu biết trước chuyện này xảy ra, tôi đã đọc những tài liệu đó sớm hơn.

Rũ bỏ nỗi sợ hãi rằng chúng tôi sẽ không trở tay kịp, tôi vùi đầu vào mớ tài liệu Towako-san đưa cho.

Chúng là tổng hợp những câu chuyện cổ về ngôi làng hoang tàn, nơi bức tượng được tìm thấy.

Chúng là kết quả nghiên cứu của những người bị thu hút về câu chuyện bức tượng mang bệnh hiểm nghèo hoặc chữa bách bệnh.

Tôi bắt đầu bằng một tài liệu có niên đại khá cao. Nó chứa khá nhiều báo cáo về các trường hợp vị sư chữa trị cho dân làng bằng cách chạm vào họ. Không có trường hợp nào cho thấy ông ta hồi sinh người chết, có cả đống câu chuyện về việc chữa bệnh hoặc chữa lành vết thương. Trong các căn bệnh được chữa khỏi, có một số bệnh có triệu chứng tương tự Saki.

“Hử?”

Tôi gặp phải một chú ý kỳ lạ.

Theo như nó nói, vị sư đã bị nhiễm căn bệnh và lui về tịnh dưỡng. Tại sao một người có thể chữa bách bệnh lại nhiễm bệnh và cần tịnh dưỡng chứ?

Đào sâu hơn vào mớ tài liệu, vị sư đó dần dần không còn được nhắc tới. Một vài nói ông ta bị bệnh chết, ở vài tài liệu khác thì nói ông biến mất.

Người được nhắc tới thay vào đó là đệ tử ông và bức tượng, vốn là vật được thờ phụng ở ngôi đền.

Tài liệu cho thấy sau đó người đệ tử đã cùng với bức tượng đi khắp nơi chữa bệnh cho mọi người.

Tiếp sau đó, có một chú  ý nói rằng một số lượng lớn người dân chết do bệnh dịch vì chạm vào bức tượng không có tác dụng. Người ta cho rằng bức tượng đã mất đi sức mạnh.

Các tài liệu liên quan khác cho thấy, câu chuyện bất thình lình chuyển sang một chiều hướng khác, bất kỳ ai chạm vào bức tượng đều nhiễm một căn bệnh hiểm nghèo.

Đến lúc này, các tài liệu trở nên rối loạn và khó hiểu.

Nó chỉ là tổ hợp các câu chuyện dân gian.

Theo như tôi nhận thấy, thì vị sư không có sức mạnh đặc biệt gì, chính bức tượng bí ẩn mới có, và nhà sư chỉ làm ra vẻ ông ta đang chữa bệnh cho người dân bằng cách chạm vào họ mà thôi.

Tôi không biết điều gì đã xảy ra cho nhà sư, nhưng đệ tử của ông đã thừa kế bức tượng. Tuy nhiên, người đệ tử không làm như sư phụ, người đó chữa trị cho người dân bằng cách để họ chạm vào bức tượng.

Đến điểm này thì không có gì xảy ra cả. Vấn đề là chuyện xảy ra sau đó.

Tại sao bức tượng bỗng dưng ngưng việc chữa trị mà chuyển thành gây bệnh?

Có khi nào, truyền thuyết về việc nó có khả năng chữa bách bệnh từ đầu đã là dối trá?

Hay sức mạnh của nó thay đổi?

Hay nó chỉ có thể chữa bách bệnh trong một điều kiện đặc biệt nào đó?

Điều này không được nhắc tới ở đâu cả.

Khốn kiếp thật, câu trả lời có thể mang chúng tôi tới gần việc cứu Saki hơn…!

Một trong các tài liệu chứa lời bạt của tác giả về bức tượng.

“Bức tượng được cho là thứ tượng trưng cho lòng căm hẫn, lời ai oán của con người. Và thực tế cho thấy lời mô tả này hoàn toàn khớp với hình dạng của vật thể. Tuy nhiên, một số khác lại bảo bức tượng mang gương mặt hiền từ của Bồ Tát.

Có lẽ, bức tượng này là một dạng vật chứa thay thế của con người. Do liên tục hấp thụ và tích tụ bệnh tật, thương tích của vô số người, vẻ ngoài bức tượng dần chuyển từ một vị Bồ Tát sang một con ác ma.

Có phải tôi là người duy nhất nhìn nhận theo hướng này?”

Có khi nào con người chúng ta đang nợ bức tượng? Món nợ mà chúng ta phải trả bằng mạng sống của người dân với số lượng bằng số người dân đã được nó cứu…?

Bỗng dưng, tôi thoáng nghe được một cơn ho khẽ từ phòng Saki.

Để kiểm tra, tôi bước vào phòng.

Người con gái trên giường có khuôn mặt xanh xao như màu của sáp tô tượng, trái ngược với nhiệt độ phát ra từ cơ thể. Có vẻ cô ấy đang ngủ, nhưng chốc chốc cơ thể lại rung lên do một tràng ho khan.

Tôi đưa tay sửa lại chăn cho cô ấy, bất thình lình, có thứ gì đó chạy trong đầu tôi.

Tầm nhìn của tôi gần như đen kịt lại.

Tôi không muốn thấy. Tôi cực kỳ không muốn nhìn thấy tương lai trong hoàn cảnh này.

Nhưng ý muốn đó của tôi không được đáp lại.

Tôi không biết được khi nào thì “Vision” hoạt động.

Một tạp âm xuất hiện trong đầu tôi---

Saki, nằm trơ trọi trên sàn, nhìn tôi bằng ánh mắt buồn bã.

Như muốn bay đến ngay cạnh cô ấy, tôi vụt chạy tới, nhưng vấp phải thứ gì đó.

Kế bên chân tôi là bức tượng nguyền rủa.

Tôi đá nó và lao tới bên cạnh Saki.

Đôi mắt cô ấy nửa nhắm nửa mở, đang cố gắng duy trì nhận thức trong đau đớn.

Dù cô ấy đang nhìn thẳng vào tôi, cô ấy vẫn không nhìn thấy tôi.

Saki mở miệng ra tính nói gì đó.

Nhưng thứ chui ra lại không phải giọng cô ấy, nó là một miệng đầy máu.

Dù vậy, cô ấy vẫn mở miệng cố gắng tạo thành từ ngữ.

Tuy nhiên, lời cô ấy không truyền được tới tôi, đôi môi rung lên và cô ấy----

“Anh… nhìn thấy gì sao?”

“!”

Tôi bừng tỉnh.

Saki đã tỉnh dậy từ khi nào và đang chăm chăm nhìn tôi.

Tim tôi đập như điên dại.

Tôi vẫn có thể hành động kịp thời. Trong tương lai tôi vừa thấy, Saki nằm sóng soài trên sàn, nhưng lúc này cô ấy đang nằm trên giường. Trong tương lai tôi vừa nhìn thấy, đôi mắt Saki đã mất tập trung, nhưng lúc này cô ấy đang nhìn tôi. Ánh mắt có hồn. Cô ấy nhìn thấy tôi rõ ràng.

Tương lai đó vẫn chưa đến.

Vẫn còn thời gian.

Tôi không biết khi nào nó xảy ra. Nhưng không phải lúc này. Chắc chắn không phải lúc này.

“… Anh làm em thức giấc à?” Bỏ qua câu hỏi của cô ấy, tôi sửa lại tấm chăn.

“Trả lời em. Anh nhìn thấy gì sao?”

Saki lặp lại, tôi gật đầu.

“Phải… anh thấy gương mặt chảy dãi, nhăn nhó khi ngủ của em!” tôi gắng gượng cười.

Gượng gạo như một cỗ máy cũ kỹ, thiếu dầu.

Sau khi sửa chăn cho cô ấy và không chịu nổi việc ở trong phòng cô ấy thêm chút nào nữa, tôi nhanh chóng bước ra như đang trốn chạy.

“Anh nói dối tệ quá.”

Lời thì thầm khô khốc ấy đọng lại trong tai tôi.

********************************

Tôi không có thời gian chìm trong đau buồn.

Tôi phải tiếp tục ý nguyện của ngài.

Bức tượng ngài ấy đã đẽo cho đến lúc chết.

Bức tượng ngày ấy để lại cho tôi.

Bức tượng đã thừa hưởng sức mạnh từ bàn tay phải diệu kỳ của ngài.

Bức tượng đã kết nối chúng tôi với nhau.

Với bức tượng như thế, tôi phải cứu giúp người dân.

Tôi mang theo bức tượng rời khỏi núi.

Tôi cảm nhận được những cái nhìn nghi ngờ xen lẫn sùng bái.

Nhưng tôi không quan tâm.

Tôi hỏi trong làng có ai bị bệnh gì không.

Và được biết có một ông lão bị bệnh liệt giường cả tháng, tôi ghé thăm ông ấy.

Con gái ông ấy e ngại tiếp đón tôi. Cô ấy hận tôi cũng là điều dễ hiểu vì tôi chính là người từ chối lời cầu cứu của cô ấy ở ngôi đền mà.

“Tôi đến để giúp cô.”

”Ngươi thì làm được gì chứ? Juan-sama đâu rồi? Mau mời ngài ấy lại đây.”

“Cứ an tâm. Bức tượng này sẽ cứu cha của cô. Hãy để ông ấy chạm vào nó.”

Là do câu nói của tôi hay do cô ấy muốn đánh cược vào lá thăm may rủi còn lại? Cô ấy đồng ý dễ dàng hơn tôi nghĩ và đưa tôi vào trong.

Tiếng ho sặc sụa của ông lão dần rõ ràng hơn. Có vẻ như đây đúng là căn bệnh dịch rồi.

Tôi ngồi xuống bên cạnh ông và cầm tay ông.

Ngay lập tức, ông ấy bị một tràng ho tấn công. Một thứ gì đó bắn vào mặt tôi.

Không cần nghĩ ngợi cũng biết đó là máu.

“Thật xin lỗi, ông chắc phải đau đớn lắm. Nhưng hãy an tâm, bức tượng này sẽ chữa trị cho ông.”

Tôi đặt tay ông lên bức tượng.

Sau đó, cơn ho tưởng chừng đánh gục được ông dừng lại ngay tức thì.

Ông ngồi dậy như chưa xảy ra chuyện gì, mắt mở to kinh ngạc.

Con gái ông và một vài người dân đứng xem khác vây lấy tôi thán phục.

Cảnh tượng này giống như lần đầu khi chúng tôi đến đây và cứu một đứa bé.

Tất nhiên chúng phải giống nhau.

Vì cả hai đều có cùng nguyên nhân và kết quả.

“Giờ ông đã khỏe khoắn rồi đấy.”

“A…. a…!” ông lão mấp máy không thành tiếng, gương mặt bày tỏ lòng biết ơn, ông nhanh chóng lau chùi vết máu dính trên người tôi.

“Ông không phải bận tâm.” Tôi điềm đạm nói.

Ông lão nắm tay tôi và lại bày tỏ lòng biết ơn.

Những câu hỏi thắc mắc bắt đầu xuất hiện trong người dân.

“Chuyện gì vậy?”

“Ai đó giải thích xem nào?”

“Giống như ông ta được Juan-sama chạm vào vậy!”

Tôi quay lại họ và giải thích:

“Bức tượng này chính là hiện thân của Juan-sama.”

Từ lúc đó, tôi bắt đầu xây dựng lại niềm tin của họ từng chút một, bằng cách ra sức cứu chữa họ.

Tôi phải chữa liên tục hết người này đến người khác như muốn trả nợ việc đã từ chối họ trong quá khứ. Tin tức lan ra khỏi làng và thu hút người dân các khu vực xung quanh hoặc xa hơn nữa.

Tôi tất nhiên không từ chối một ai.

Tôi đã cứu hàng trăm, hàng ngàn người khỏi bệnh tật hay thương tật.

Tôi mong muốn cứu giúp hết những ai cần cứu giúp.

Như chủ nhân tôi đã làm.

Như ý muốn của ngài.

“Làm ơn giúp tôi với! Con tôi! Con tôi bị sốt cao quá!”

Ngày hôm đó cũng vậy, một người dân đến gõ cửa đền.

Đứa trẻ trong tay bà ho ngắt quãng và thở rất khó khăn. Khi tôi kiểm tra thì thấy trán đứa bé nóng như thiêu đốt.

“Xin ngài, hãy dùng bức tượng cứu con tôi…!”

“Hãy theo tôi.”

Tôi mời người phụ nữ và đứa con của bà vào.

Bà ấy cảm thấy nhẹ lòng và bước vào.

“Bức tượng! Bức tượng đâu rồi?” bà ta vừa thúc hối tôi vừa tìm bức tượng.

Khi thấy nó trên bàn thờ Phật, bà ta vội vã chạy tới.

“Đứng lại!” tôi đanh giọng la lớn.

“Bà không được tự tiện chạm vào nó. Chỉ có ta và người bệnh mới có thể chạm vào.”

Đó là bức tượng quý báu mà Juan-sama đã để lại cho tôi.

Tôi không thể để bất kỳ ai làm hư hỏng hay trộm cắp nó được. Cho dù đó là một người mẹ đang hết mực lo lắng cho tính mạng đứa con, tôi cũng không cho phép tự tiện chạm vào.

“T-tha lỗi cho sự đường đột của tôi.”

Tôi bước tới lấy bức tượng xuống và quay lại chỗ đứa bé.

“Con của bà sẽ khỏe mạnh trở lại nhanh thôi!”

Tôi để cho đứa bé chạm vào bức tượng.

Cơn ho ngưng lại, cơn sốt hạ xuống và bệnh nhân đứng dậy trong tình trạng khỏe khoắn nhất--- như nó đã từng diễn ra.

Tuy nhiên, đứa trẻ bất ngờ lên cơn ho liên tục không dứt.

“Khụ! Khục!.... Khụ! Khụ!... khục!”

“?”

Sao vậy nhỉ?

Sao căn bệnh không biến mất?

Tôi lại cho đứa bé chạm vào bức tượng lần nữa.

“… Ọe….ua! …kh, kh! … khkhục!”

Cơn ho còn tệ hơn. Đứa bé nhăn nhó quơ quào tứ chi.

Không những thế, nó còn bắt đầu ho ra máu. Tôi cảm thấy được máu bắn vào mặt và cơ thể tôi, nhưng tôi hoang mang không biết phải làm sao.

“Có chuyện gì thế? Xin ngài hãy cố gắng lên! Hãy cứu con tôi!!” người mẹ rối trí nói lớn.

Bỗng dưng, cơn ho dứt hẳn và đứa bé cũng ngưng cựa quậy.

À, cuối cùng thì căn bệnh cũng chấm dứt.

Ngay khi tôi vừa nghĩ như thế thì---

Tiếng hét thất thanh của người mẹ vang lên.

Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra.

Nhưng lời đồn đại bắt đầu lan ra.

Rằng tôi đã thất bại khi cứu một đứa bé.

Tuy nhiên, chúng không hại gì đến tôi.

Việc tôi đã cứu trăm ngàn người không thể bị bỏ qua chỉ sau một thất bại được. Bàn tay phải của ngài và bức tượng không thể hồi sinh những gì đã chết, mọi người đều biết như thế.

Do đó, với việc cho rằng căn bệnh của đứa bé đã tiến xa đến mức không còn có thể chữa trị được, câu chuyện dần khép lại. Đáng lẽ nó phải có kết cuộc như thế.

“Khụ…! KH…KHỤ! KHUKHỤC!...Ọe…!”

Lại nữa.

Lại thêm một người chạm vào bức tượng nhưng căn bệnh không chấm dứt, mà còn trở nên trầm trọng hơn. Ông ta bị những cơn ho tấn công tới tấp, ho ra máu rồi qua đời.

Tôi cảm nhận được những ánh nhìn nghi hoặc của người dân.

Nhưng tôi không thể tìm được câu trả lời.

Bức tượng đã bị làm sao thế này?

Cái gì đã thay đổi?

“Liệu chúng tôi có được lời giải thích hợp lý?”

Đây là câu đầu tiên tôi nghe được khi bị trưởng làng gọi đến.

Trong những người đã chết sau khi chạm vào bức tượng. Đúng là có những người bệnh quá nặng không thể chữa trị được. Nhưng có đúng là như thế không? Không phải có những người vẫn còn cơ hội sao?” ông ấy hỏi.

“Tôi không…”

Tôi không có câu trả lời, chỉ biết im lặng.

“Tôi đã bảo mà!”

Một giọng nói bất ngờ phá tan bầu không khí im lặng.

Tôi nghe tiếng đám đông dạt ra và một người bước tới trước mặt tôi.

Đó là bà lão đã theo tôi trở về đền vào cái ngày mà tôi đã chặt tay Juan-sama.

“Tôi đã nhìn thấy! Tôi đã tận mắt thấy cái chết của Juan-sama! Nhưng ngài ấy không chết bình thường. Ngài ấy bị giết. Bị đục bằng một cái dùi…”

“Lại nữa sao? Bà đừng có lan truyền mấy câu chuyện nhảm…”

“Tôi không nói dối! Chính mắt tôi trông thấy mà. Mọi người….? Không ai tin tôi sao?”

Đúng thế, theo cái nhìn của bà thì có vẻ Juan-sama đã bị giết bằng một cái dùi. Và bà ấy dễ dàng đoán tôi chính là hung thủ khi quần áo tôi vấy máu của ngài.

Bà ấy kể lại cho người dân nhưng không một ai tin vì tôi đã cứu vô số người.

Nhưng lúc này thì khác. Họ nghi ngờ.

Những người đứng sau bà ấy bắt đầu đổ lỗi cho tôi:

“Bà ấy nói đúng đấy!”, “Là lời nguyền của Juan-sama!”, “Ngài ấy đang trả thù chúng ta vì ngươi đã giết ngài!”

Tuy nhiên, cũng có những người đứng dậy bảo vệ tôi:

“Con của chúng tôi đã được bức tượng ấy cứu!”, “Juan-sama không bao giờ nghĩ tới việc trả thù!”, “Những người không may là do căn bệnh trở nên quá nặng không thể cứu chữa!”

“Có rất nhiều ý kiến trong người dân. Tôi cũng vậy, rất muốn tin như thế. Nhưng tới thời điểm này thì không thể không nghi hoặc được. Thế nên tôi muốn có bằng chứng. Bằng chứng cho khả năng chữa bách bệnh của bức tượng. Bằng chứng cho việc không có ai chết vì bức tượng.”

“Tính mạng của tôi chưa đủ là bằng chứng hay sao?”

Tôi ôm bức tượng vào lòng.

Nếu ngài ấy để lại lời nguyền, thì ngài ấy hẳn đã giết tôi ngay lập tức rồi.

Nếu bức tượng này thật sự giết người thì nó đã giết tôi ngay lập tức rồi.

Nhưng chuyện đó không xảy ra.

Đó không phải là bằng chứng xác đáng nhất sao?

“Hê, ta dám cá là ngươi giở trò.” Bà lão giễu.

“Chẳng phải bà cũng đã đọc lá thư của Juan-sama hay sao?”

“Ngươi viết nó rồi giấu vào trong áo của ngài chứ gì?” Bà ta khẳng định .”Juan-sama là một người đáng ngưỡng mộ, đúng là như vậy! Thần linh chứng giám biết bao nhiêu lần ngài đã cứu con và cháu của ta. Ta đã muốn tin ngài là Bồ Tát hiện thân!”

Tôi cũng thế. Không, tôi còn nghĩ xa hơn cả bà ấy.

“Ngươi có biết câu chuyện cổ về một người đàn ông… giết thần không?

“?”

“Thời xưa khi trần gian còn một vị thần cai trị, có một người đàn ông đã giết vị thần đó. Ngập trong dòng máu thần thánh đó, thanh gươm của gã nhận được một sức mạnh bí ẩn, và gã đàn ông ngu xuẩn đó, bỗng chốc lập được vô số công trạng trên chiến trường. Nhưng vào một ngày, một tên lưu manh đột nhập vào nhà hắn. Hắn rút kiếm ra để bảo vệ gia đình, nhưng thanh kiếm của hắn lại không thể chém kẻ thù. Nổi tiếng với độ sắc bén trên chiến trường, cây kiếm bây giờ còn không chém nổi một tên lưu manh, không, cắt da kẻ đó  cũng không làm được. Hắn và gia đình mình bị tên lưu manh đó chém chết. Máu của vị thần đã mang đến sức mạnh cho thanh kiếm. Nhưng vị thần không giây phút nào quên nỗi căm phẫn kẻ đã chém mình. Đó chính là quả báo. Giây phút hắn muốn bảo vệ những người yêu quý nhất- giây phút thanh kiếm cần phải sắc bén hơn bao giờ- thanh kiếm đã phản bội kẻ đó và mất đi sự sắc bén của mình.

Ngươi có hiểu ý nghĩa của câu chuyện này không? Chính là ngươi đấy!”

“Ơ?”

“Ngươi đã giết Juan-sama và nhúng bức tượng vào máu của ngài đúng không? Ngươi tôn thờ sức mạnh của ngài và muốn bắt chước như ngài ấy đúng không?”

“K-không! Tôi không bao giờ…”

“Cứ giả đò ngây thơ đi. Những cái chết do bức tượng gây ra đã chứng minh ta nói đúng! Đó chính là lời nguyền của Juan-sama. Không… là quả báo! Juan-sama đang trừng phạt ngươi!”

Bà lão hất bức tượng ra khỏi tay tôi.

“S-sao bà dám làm như thế với bức tượng ngài ấy để lại?!”

“Hả, nhìn vào bức tượng của ngươi đi. Cái từng là hiện thân đẹp đẽ của nhà trời, bây giờ nó đang nhăn nhở cười tà ác kia kìa! Còn các người, mau mở mắt ra đi. Các người muốn để nó lừa gạt bao lâu nữa? Sự trừng phạt của ngài ấy sẽ giáng xuống cả các người nếu các người còn mê muội.”

Tôi nhận thấy nỗi sợ hãi tăng lên và tiếng bước chân lùi lại.

“Ai đó, ai đó hãy nhặt bức tường lên giúp tôi!” Tôi cầu cứu, nhưng không một ai nhặt bức tượng.

Bảy ngày sau, bà lão chết vì căn bệnh truyền nhiễm.

Đó cũng là thời điểm người dân mất lòng tin vào tôi.

********************************

Khoảnh khắc tôi bước ra phòng khách, tôi khụy xuống sàn.

Nhắm mắt lại, tương lai kinh khủng mà “Vision” đã cho tôi thấy lại hiển hiện trong tôi.

“Vision”?

Nó hiển thị tương lai?

Nhưng tự tôi có thể đoán được kha khá việc gì sẽ xảy đến cho Saki! Tại sao nó lại cho tôi thấy tương lai đó vào lúc này?

Tại sao nó không cho tôi thấy trước khi Saki chạm vào bức tượng?!

Ánh mắt tôi bắt gặp bức tượng.

Bức tượng đáng nguyền rủa sắp sửa lấy đi sinh mạng của Saki.

Bức tượng đáng ghê tởm đang đứng đó, bên trong lồng kính như nó chẳng hề liên quan gì.

Tôi đưa tay lại lồng kính.

Biết đâu, tôi sẽ thấy một tương lai khác khi tôi sắp sửa chạm vào nó?

Biết đâu, “Vision” sẽ cho tôi thấy cái chết của tôi?

Biết đâu, tôi sẽ tìm thấy một gợi ý nào đó để cứu Saki?

Khi tôi sắp cởi bỏ đôi găng tay đang đeo thì một bàn tay khác ngăn tôi lại. Towako-san đang đứng bên cạnh tôi.

“Không được chạm trực tiếp vào nó.”

“Em không có chạm nó! Em chỉ giả vờ thôi, chị biết mà…?”

“Em sẽ chết đấy.”

Lời biện hộ của tôi nghẹn lại trong cổ họng khi nhận ra giọng của chị ấy nghiêm đến nhường nào. Tôi không dám nói liệu tay tôi có ngưng lại nếu không được Towako-san ngăn lại hay được Vision cảnh báo.

“Chị có tìm được gì mới không?” Tôi hỏi chị ấy.

Towako-san lặng lẽ lắc đầu.

Tôi cảm thấy cơ thể rung lên khi nhận được phản hồi như thế.

“Tokiya… tại sao em phải làm đến mức này?”

Ngữ điệu chị ấy nhắm tới hành động chạm trực tiếp vào bức tượng của tôi.

“Nếu em không làm gì thì Saki sẽ…”

“Chỉ như vậy?”

“Vì, chị nhìn xem, Saki đang…”

Saki đang, đang thế nào? Phải, chúng tôi đã trải qua thời gian dài cùng nhau nhưng chỉ vừa được một năm kể từ khi quen biết. Hiện giờ chúng tôi chỉ là đồng nghiệp. Đó là toàn bộ mối quan hệ hiện giờ của chúng tôi.

Nhưng cảm xúc của tôi không đồng ý.

Tôi cảm thấy rằng chúng tôi đã quen nhau còn lâu hơn nữa.

Tôi cảm thấy mối liên kết của chúng tôi còn chặt hơn thế nữa.

Nó không có lý do.

Tôi không thể giải thích.

Tôi không thể tưởng tượng được chuyện gì sẽ xảy ra nếu mất Saki. Chỉ nghĩ đến thôi đã làm tôi không còn bình tĩnh được nữa, tôi như muốn ngã quỵ xuống, tâm trí chìm vào cõi hư không lạnh lẽo nào đó.

Tôi không biết vì sao.

Nhưng ngược với lý trí, cảm xúc của tôi đang gào thét như thế.

… Vậy mà tôi không làm gì được.

“…Ư!”

Tôi hất bức tượng và lồng kính của nó xuống đất.

Lồng kính vỡ thành trăm mảnh nhỏ, bức tượng thì lăn lông lốc trên sàn.

Khắp phòng khách tràn ngập các mảnh thủy tinh, còn bức tượng thì bong ra một mảng.

“Đừng trút giận lên Antique. Chúng chỉ vật thể tồn tại. Chúng không phải thứ mang tội.”

“Vậy thì ai? Saki sao? Vì đã chạm vào nó?”

“Không,” Towako-san lại lắc đầu. “Là chị. Vì chính chị mang nó về.”

“….!”

Không thể phản bác nhận định của chị ấy, tôi đạp lên mảng vỡ của Antique.

“Em cũng không tìm được gì sao?” chị ấy hỏi.

Nếu em tìm thấy thì em đã không ở đây.

“Tất cả những gì chị muốn làm chỉ là nghiên cứu các truyền thuyết mâu thuẫn nhau…” Towako-san nói, giọng đượm buồn.

“… Có khi nào sức mạnh của nó thay đổi không?” tôi đề xuất.

“Chị chưa bao giờ nghe thấy một Antique có sức mạnh thay đổi cả.”

Thế thì vì sao nó lại quay ra giết người khi đang cứu họ chứ?

“Có… chuyện gì sao…?”

Saki tựa người vào cánh cửa nhìn ra hỏi. Chắc cô ấy nghe thấy tiếng vỡ nên ra kiểm tra.

Cô ấy vẫn xanh xao như trước, và trông rất khó khăn mới đứng được. Không phải, “vẫn” chỉ là một lời nói dối. Cô ấy trông tệ hơn trước rất nhiều.

“Em làm gì thế? Ngoan ngoãn nằm nghỉ đi…”

Tôi chưa kịp nói hết câu thì Saki đã khụy xuống. Cô ấy đau đớn bấu vào ngực mình, và ho liên tục nhiều lần. Trong người tôi chợt sinh ra một dự cảm bất thường.

Saki ngã quỵ xuống. Cô ấy ngẩng mặt lên chỉ một chút và nhìn tôi bằng ánh mắt buồn bã.

“Saki!”

Như muốn bay đến ngay cạnh cô ấy, tôi vụ chạy tới, nhưng vấp phải thứ gì đó.

Kế bên chân tôi là bức tượng nguyền rủa.

Tôi đá nó ra. Bức tượng đập vào tường và lăn tới trước mắt Saki.

“!”

Một cơn lạnh không tưởng tượng nổi chạy dọc sống lưng tôi.

Đây không là gì khác ngoài tương lai mà “Vision” đã cho tôi thấy.

Trong hình ảnh đó, Saki ngã quỵ xuống.

Cô ấy nhìn tôi bằng ánh mắt đăm chiêu.

Tôi trượt ngã vì bức tượng đáng nguyền rủa.

Tôi đá nó đi.

Đã có quá nhiều dấu hiệu rồi.

Chúng giống nhau. Không. Chúng giống nhau! Không!

Hai giọng nói phủ định lẫn nhau trong đầu tôi.

Tôi cố gắng rũ chúng đi và chạy tới Saki.

Cô ấy đang cố ngồi dậy trong vô vọng, cơn ho liên tục không ngớt. Một giọt máu chảy ra từ bàn tay che miệng của cô ấy và rơi xuống bức tượng.

Giây kế tiếp, cô ấy gần như ngã lên bức tượng nhưng tôi kịp thời giữ lại được. Tôi sợ rằng nếu cô ấy chạm vào nó lần nữa thì sẽ không còn cứu được nữa.

Cô ấy lại ho, máu bắn vào mặt tôi.

“… Em xin… lỗi…”

Saki cố gắng tránh xa tôi, nhưng ngay lập tức lại muốn ngã xuống lần nữa, lần này thì Towako-san đỡ cô ấy kịp thời.

“… Mau lau vết máu… nó có thể nhiễm bệnh…”

Saki cố gắng dùng ngón tay lau vết máu trên mặt tôi. Nhưng tay cô ấy, cũng bê bết máu.

“Em… chỉ làm… nó.. tệ… hơn…”

Bỗng nhiên tay cô ấy rơi xuống. Trước khi nó kịp chạm vào bức tượng, Towako-san kịp thời chặn lại.

Những người trong quá khứ trước khi qua đời cũng phải trải qua như thế này sao?

Tìm kiếm cứu rỗi, để nhận lấy phản bội?

Và chẳng thể làm gì khác ngoài việc chứng kiến cái chết đến với mình trong tuyệt vọng?

Khi tôi đưa chân lên tính đá nó khỏi tầm của Saki thì tôi nhận thấy máu cô ấy chìm vào trong bức tượng.

“!”

Không phải. Máu cô ấy không chìm vào trong. Nó bám trên bề mặt bức tượng như đó là chuyện bình thường. Chỉ là màu máu gần như trùng với màu bức tượng.

Thứ gì đó làm tôi chú ý.

“Tokiya?”

Tôi để Saki lại cho Towako-san và nhặt bức tượng lên bằng đôi găng tay của mình.

Sau đó tôi lau vết máu của Saki. Phần máu còn lại bị trây ra bề mặt bức tượng.

Lần này thì màu của chúng hoàn toàn trùng với nhau, như thể vệt máu đã biến mất hoàn toàn.

Bức tượng đã cứu hàng ngàn hàng vạn người.

Triệu chứng bắt đầu bằng những cơn ho khan, sau đó ho ra máu. Cuối cùng, người bệnh bị liệt toàn thân và chết.

Bức tượng đã được người bệnh chạm vào với mong muốn được cứu chữa bao nhiêu lần?

“----------------!”

Towako-san đã nói sức mạnh của Antique không thay đổi.

Do đó, tôi đã cho rằng một trong hai truyền thuyết là bịa đặt.

Nhưng nếu cả hai đều không sai thì sao?

Nếu sức mạnh của bức tượng không phải chữa bách bệnh cũng chẳng phải gây nhiễm bệnh nan y, nhưng do cái khác gây ra nhiều loại sức mạnh  thì sao?

Vậy nếu sức mạnh của nó không thay đổi, thì cái gì thay đổi?

Nó đã được nhắc tới trong đống tài liệu:

‘Bức tượng được cho là thứ tượng trưng cho lòng căm hẫn, lời ai oán của con người. Và thực tế cho thấy lời mô tả này hoàn toàn khớp với hình dạng của vật thể. Tuy nhiên, một số khác lại bảo bức tượng mang gương mặt hiền từ của Bồ Tát.’

Nói cách khác:

Sức mạnh của nó không thay đổi.

Bề ngoài của nó mới là cái thay đổi.

Bị ô nhiễm, lây lan từ hàng trăm hàng ngàn người là nạn nhân của bệnh dịch.

Cái hất tay của tôi lúc nãy đã làm bức tượng nứt nẻ vô số chỗ, cũng như bị bong ra một vài chỗ trên bề mặt của nó.

Thứ xuất hiện đằng sau lớp bề mặt, chính là----

********************************

“------….”

Tôi lấy lại nhận thức của mình. Có vẻ như tôi đã ngất đi.

Tôi nghe thấy tiếng nhà sập gần đó.

Tôi nghe thấy tiếng cột đền gãy đổ một nơi không xa.

Tiếng động và nhiệt độ đã cho tôi biết, đám cháy đã không còn có thể dập tắt được nữa.

Có lẽ họ quyết định thiêu sống tôi.

Tôi không sợ chết.

Ngược lại, tôi thấy hạnh phúc hơn khi có thể đến bên cạnh ngài.

Niềm ân hận duy nhất của tôi là đã không thể hoàn thành nguyện vọng của ngài.

Trong bức thư ngài để lại cho tôi, ngài mong tôi dùng bức tượng như bàn tay phải của ngài để cứu chữa cho người dân.

Nghe lời dặn dò ấy, tôi đã tận tâm tận lực cứu chữa dân làng.

Nhưng cuối cùng tôi lại không thể cứu mạng sống của họ và phản bội lại niềm tin của ngài. Không, tôi còn bị nghi ngờ đã giết họ.

Tôi đã không thể tìm được nguyên do vì sao bức tượng đánh mất khả năng chữa trị của nó.

Thứ duy nhất tôi có thể nghĩ tới, nó chính là sự trừng phạt của thần linh.

Vì đã báng bổ, không tin vào thần linh.

Vì đã ngạo mạn, muốn thay thế Juan-sama.

Tuy thế, không có giây phút nào là tôi xao nhãng việc cứu người.

Vì nguyện vọng của ngài nằm trên mọi thứ khác, cho dù việc đó đồng nghĩa với việc chống đối thần linh.

Gắng gượng cơ thể gần như tê dại này, tôi đập vỡ một mảnh lót sàn và bắt đầu đào.

Mặc kệ da tay đang rách dần, mặc kệ những ngón tay đang rỉ máu, mặc kệ những móng tay bị tróc ra, tôi vẫn đào, vẫn đào bằng đôi bàn tay không có chút cảm giác.

Tuy chỉ là một lỗ nhỏ, nhưng nó đã đủ bảo vệ bức tượng.

Tôi muốn đặt bức tượng trong một cái hòm hay thứ gì tương tự, nhưng thời gian không cho phép điều xa xỉ đó.

Những ngày trước, tôi chăm chỉ lau chùi bức tượng để bảo quản vẻ long lanh ánh hoàng kim của nó. Ngài ấy rất vui mừng vì điều đó.

Nhưng bây giờ đất đá đã làm nó dơ dáy. Máu từ những cơn ho của tôi bám vào nó. Không, trước đó nó đã bị bẩn rồi. Bị bám bẩn từ máu của người bệnh trong những lần cứu chữa. Nó hẳn đã bị vấy bẩn một lượng máu không kể xiết.

Đầu tôi bất ngờ bị giáng một cú mạnh bạo.

Một phần trần nhà sập đổ. Nhưng tôi không cảm thấy đau đớn gì.

Thay vào đó, một cảm giác tò mò tấn công tôi.

Một hình ảnh méo mó xuất hiện trong đôi mắt mù quáng này.

Thứ tôi nhìn thấy trong hình ảnh méo mó này là hình ảnh ngôi đền đang bị đốt cháy.

Đây là trò đùa của định mệnh chăng?

Vì cú giáng vừa rồi đập vào phía sau đầu tôi, thị lực- thứ tôi đã mất vào ngày sư phụ ra đi- tạm thời trở lại.

Nếu có thể, tôi mong nó mãi mãi mất đi.

Tôi không muốn nhìn thấy ngôi đền, nơi tôi và sư phụ sống cùng nhau, dần dần trở thành tro bụi.

Tôi không muốn chúng là những hình ảnh cuối cùng của cuộc đời mình.

Tôi chuyển ánh mắt từ ngôi đền đang bị lửa thiêu cháy sang bức tượng trong tay mình.

Tôi muốn khắc sâu vào tâm trí mình hình ảnh gương mặt ngài đang hiện diện trên bức tượng---

--- và tôi chợt ngưng lại.

Cái gì thế này?

Bức tượng trong tay tôi khác xa hoàn toàn với bức tượng tôi từng biết.

Bức tượng vốn mang hình ảnh trong veo như mặt hồ không một gợn sóng, bình yên như bầu trời không một bóng mây đã hóa thành thứ rác rưởi đỏ đậm gớm ghiếc.

Tôi nhanh chóng nhận ra chúng chính là máu.

Máu của hàng trăm hàng ngàn người được bức tượng cứu, đã bám lên nó. Tôi đã có cảm giác bức tượng bị máu bám bẩn lên từ trước. Vì thế, hàng ngày, tôi đều lau chùi bức tượng hết mức có thể.

Nhưng do đôi mắt mù lòa và đôi tay không chút cảm giác, tôi đã bỏ sót một phần nào đó. Máu của hàng trăm hàng ngàn người bám vào bức tượng vô số lần hết lớp này đến lớp khác cho đến khi nó đã phủ hoàn toàn bề mặt bức tượng.

Tôi nhớ lại lời nói của bà lão.

‘Cái từng là hiện thân đẹp đẽ của nhà trời, bây giờ nó đang nhăn nhở cười tà ác kia kìa!’

Lúc đó, tôi đã nghĩ nó là một lời ác ý.

Nhưng giờ tôi đã biết nó là sự thật.

Và tôi cũng biết vì sao bức tượng đã ngưng chữa trị dân làng.

Lớp máu bám vào nó đã ngăn cản sức mạnh của bức tượng. Còn tệ hơn, lớp máu đó đã vặn vẹo khả năng hoạt tính hóa sức sống, mang cái chết đến cho mọi người.

Tôi đã muốn phá hủy thứ gớm ghiếc này.

--- nhưng không thể.

Tôi không thể phá hủy bức tượng do chính tay ngài tạo nên.

Nếu có thể, tôi muốn gỡ bỏ lớp máu này nhưng tôi không còn thời gian nữa.

Lớp máu thật ghê tởm, nhưng nó cũng là bằng chứng cho hàng ngàn hàng vạn người được nó cứu.

Sau khi thổ lộ lòng biết ơn tha thiết và cầu xin sự tha thứ từ bức tượng và Juan-sama, tôi chôn nó xuống lỗ- cùng với ước nguyện rằng sẽ có một ai đó tìm thấy và trả lại bộ mặt ban đầu của bức tượng.

Thật xấc xược.

Dù bản thân không tin vào thần linh, nay tôi lại nguyện cầu.

Và tôi không thể làm gì khác nguyện cầu.

Mong rằng sẽ có một người thừa kế được mong ước của ngài và của tôi, có thể cứu càng nhiều người càng tốt…

********************************

Gói gọn trong một từ, nó là một bức tượng quái đản.

Thứ trông giống đồng bị oxy hóa và gỗ mục trong cái nhìn đầu tiên, bên dưới lớp bao phủ đen khô đó là bề mặt vàng lóng lánh ánh kim.

Thứ gây cho người ta cảm giác quái lạ như nhìn thấy những khuôn mặt trên thân cây hay trên tường, hóa ra chỉ là thứ che giấu hình tượng một vị Bồ Tát bên trong.

Phần còn lại của lớp bao phủ đỏ đậm có thể dễ dàng tách ra từng mảng một. Sau khi tôi hoàn thành, thứ trên tay tôi là một bức tượng xứng đáng được thờ phụng trong một ngồi đền, dù lớp mạ vàng đã bị tróc mỗi nơi một ít.

Hóa ra bức tượng vàng kim bị một lớp máu bao phủ. Một lượng máu lớn đã bám vào và đóng thành lớp trên bề mặt bức tượng. Tôi cho rằng đó chính là máu của hàng trăm hàng ngàn người đã chạm vào bức tượng để được chữa lành bệnh.

Tôi nhanh chóng cầm bức tượng sạch sẽ chạy đến chỗ Saki.

Mặc dù không có gì để xác minh, tôi vẫn chạm bức tượng vào cô gái đang nằm kiệt sức ở đó.

Ngay lập tức, cơn sốt cao của cô ấy biến mất, nhịp thở hổn hển dần dịu lại, và cơn ho liên tiếp lúc nãy ngừng ngay tức thì.

Bức tượng, thứ đã gây bệnh cho cô ấy, bây giờ nhờ chạm vào nó mà căn bệnh đó lại được chữa trị.

Giống như những gì được ghi lại trong các câu chuyện ban đầu về bức tượng---

********************************

Vào một ngày nọ, tôi hỏi Towako-san, “Rốt cuộc, bức tượng ấy là thứ gì thế?”

“Cái này chỉ là phỏng đoán của chị thôi nên tin hay không là tùy,” chị ấy bắt đầu giải thích.

Theo suy đoán của chị ấy, không hẳn là chữa bách bệnh hay thương tích, bức tượng có thể kích thích sức sống và sức mạnh trị liệu của một người.

Nói cách khác, bức tượng đã kích thích vi khuẩn trong máu của người bệnh bám vào nó, làm cho người sau chạm vào bệnh nặng càng thêm nặng.

“Chúng ta vẫn không dám chắc chắn được.” Chị ấy chốt lại.

Có vô số câu hỏi khác hiện ra.

Tại sao vị sư và người đệ tử không chịu lau chùi vết máu? Vị sư thầy kia đã biến đi đâu? Và người đệ tử đã đi đâu sau khi bỏ lại bức tượng?

Có khi nào, người đó đã bỏ chạy vì bức tượng không còn sức mạnh như nó đã từng? Có khi nào, người đó đã chết vì bức tượng?

Các tài liệu không ghi chép gì về những vấn đề này.

Do đó, chúng tôi chỉ có thể tự tưởng tượng ra mà thôi.

Thứ duy nhất mà các tài liệu cho chúng tôi biết là ngôi làng bị nhiễm căn bệnh dịch đó không còn tồn tại nữa.

Có lẽ ngôi làng đã bị phá hủy từ khi bức tượng mất đi sức mạnh ban đầu của nó.

“Nhưng sự thật bức tượng đã cứu vô số người vẫn còn đó.” Saki nói trong khi đưa tay tới bức tượng, thứ đã có lúc muốn lấy mạng của mình.

Một vết nứt hở hiện hữu trên bức tượng, có lẽ do tôi hất nó xuống sàn khi đó.

Vết nứt từ trên xuống đó trông như một khe hở đã xuất hiện từ trước.

Bỗng dưng, với một tiếng rắc và bộp, vết nứt mở rộng ra và rộng ra, cho đến khi, bức tượng bị tách làm hai.

Bên trong bức tượng bị đục rỗng bằng một cái dùi hay thứ gì đó tương tự, thứ giấu trong nó bây giờ được mang ra ánh sáng.

Nhăn nheo như thể nó đã bị rút cạn sinh lực, hoặc do đã hoàn thành mục đích của mình.

Khô khốc như một cành cây phơi nắng phơi mưa trong thời gian dài…

Bên trong bức tượng đó là…

Một bàn tay phải.

Bình luận (0)Facebook