All you need is kill
Hiroshi SakurazakaTakeshi Obata, Yoshitoshi ABe
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Chương 4: Killer Cage

Độ dài 21,530 từ - Lần cập nhật cuối: 2019-10-29 05:00:21

1

“Chết tiệt, bắt đầu rồi! Cố gắng đừng để hai hòn bi tan tành xác pháo đấy mấy chú!”

Trận chiến 159

Tôi lao tới phía trước, rada Doppler vặn lên mức tối đa.

Tôi nhắm một mục tiêu, bắn, cúi xuống. Một mũi giáo xé gió lướt trên đỉnh đầu tôi.

“Ai ở ngoài đó thế? Cậu tiến quá xa! Muốn tự sát à?”

Trung úy lần nào cũng nói y hệt vậy. Tôi vuốt cát bám trên mũ bảo hộ đi. Những tia sét nổ ra từ những vỏ đạn xẹt ngang dọc khắp bầu trời. Tôi liếc nhìn Ferrell và gật đầu.

Lần này trận chiến sẽ kết thúc. Nếu tôi đứng đây và nhìn Yonabaru cùng Ferrell chết thì họ sẽ không quay trở lại. Tất cả phụ thuộc vào lần này. Trận chiến này sẽ không còn lặp lại nữa. Nỗi sợ hãi đang cào xé trong ruột tôi không phải nỗi sợ hãi trước cái chết, đó là nỗi sợ trước một ẩn số. Tôi muốn ném khẩu súng trường cùng chiếc rìu xuống và tìm lấy một chiếc giường để trốn dưới gầm.

Chỉ là một phản xạ hết sức bình thường thôi –– thế giới vốn có bao giờ tự lặp lại đâu. Cơn cồn cào trong ruột chẳng thể cản tôi cười toe toét. Bây giờ tôi đã được tận hưởng nỗi sợ hãi mà mọi người đều phải chịu đựng. Tôi đang đặt mạng sống –– thứ tôi chỉ có một –– lên bàn cược.

* * *

“Thực ra anh không bị kẹt trong vòng lặp thời gian,” Rita đã giải thích với tôi. Những kinh nghiệm trong 158 trận đấu trước đây đều là thật; chỉ có tôi là người không thực sự tồn tại. Dù cho ai là người đã ở đó, quằn quại trong đau đớn, tuyệt vọng và bãi nước tiểu nóng cháy trong Chiến giáp thì giờ hắn cũng không còn nữa, lúc này hắn chỉ còn là một mảnh kí ức.

Rita bảo tôi rằng dưới góc nhìn của người nắm giữ kí ức, không có gì khác biệt giữa có những kinh nghiệm thực sự và chỉ có ký ức về nó. Với tôi mấy thứ đó chỉ là một mớ triết học nhảm nhí. Dù sao Rita cũng có hiểu tường tận đâu.

Tôi nhớ về cuốn truyện tranh tôi từng đọc, từ cái hồi tôi vẫn còn đọc truyện tranh, kể về một chàng trai sử dụng cỗ máy thời gian để thay đổi quá khứ. Có vẻ như nếu quá khứ thay đổi, cái gã từ tương lai mà quay ngược thời gian để thay đổi nó sẽ phải biến mất –– như gã trong mấy tập phim Back to the Future cũ rích ấy –– nhưng cuốn truyện chẳng đi sâu vào mấy chi tiết đấy.

Tôi đã vô tình trở thành một gã nhìn trộm vào giấc mơ của lũ Mimic đó. Ngay từ trận chiến đầu tiên, cái lần Rita cứu mạng tôi, tôi đã không hề hay biết mà giết một con Mimic mà cô ấy gọi là “server”. Trong mỗi trận chiến kể từ lúc đó, từ trận số hai tới trận số 158, Rita đều đã giết con server. Nhưng hệ thống liên hệ giữa tôi và server đã được thiết lập ngay trong khoảnh khắc tôi giết nó, nghĩa là tôi là người bị kẹt trong vòng lặp mà Rita đã thoát ra được.

Những con Mimic nọ sử dụng vòng lặp để thay đổi tương lai thành ra có lợi cho chúng. Mũi giáo tưởng như bắn trượt Yonabaru trong trận chiến thứ hai thực ra vốn dành cho tôi. Cái lần tình cờ đụng độ Mimic khi tôi chạy khỏi căn cứ vốn chả tình cờ chút nào. Chúng đã theo đuôi tôi. Nếu không phải vì Rita, chúng đã làm thịt tôi để ăn sáng, ăn trưa, ăn tối rồi.

* * *

Trận chiến tiếp tục. Sự hỗn loạn càn quét khắp chiến trường.

Tôi chui vào trong một hố bom cùng toàn đội để tránh bị thông bởi một mũi giáo từ một con xạ thủ bắn tới. Cả đội đã di chuyển cả trăm mét tới gần bờ biển từ khi trận chiến bắt đầu. Cái lỗ mà chúng tôi đang núp có được là nhờ công ơn cao cả của mấy quả bom định vị GPS trong đêm trước đó. Gió xoáy cuồn cuộn cuốn quanh chân tôi, thổi tung cát bụi lên không.

“Y như hồi ở Okinawa,” Ferrell bình luận, tấm lưng anh ta tựa vào bức tường làm từ đất.

Yonabaru lại nhả thêm một loạt đạn khác. “Cuộc chiến lần đó hẳn phải y như địa ngục trần gian.”

“Bọn tao bị bao vây, y như bây giờ. Đạn thì hết và mọi chuyện càng lúc càng tồi tệ.”

“Anh đang kể chuyện xúi quẩy đấy.”

“Tao không biết nữa ­­––“ Ferrell bật dậy từ đằng sau hố bom, rỉa đạn, rồi lại rút về sau bức tường. “Tao có cảm tưởng trận chiến này sẽ có chuyện gì đó. Chỉ là cảm tưởng thôi.”

“Chết tiệt, Trung sĩ đang nói chuyện sến này. Tốt nhất cẩn thận không bị sét đánh mất.”

“Nếu chú mày có gì nghi vấn, cứ nhìn tay lính mới của chúng ta hành động đi,” Ferrell nói. “Nó mà có đột nhiên bật dậy rồi nhảy điệu jitterbug chỉ để trêu tức tụi Mimic thì anh cũng không ngạc nhiên đâu.”

“Em có biết điệu jitterbug là điệu gì đâu,” Tôi nói.

“Nói nhảm ít thôi.”

“Có lẽ sau này anh sẽ thử xài cái rìu chiến đáng yêu của chú mày một lần cho biết.” Yonabaru gật đầu trước cục Volfram các bua trong nắm tay tôi.

“Anh sẽ khiến mình bị thương đấy.”

“Phân biệt đối xử đúng là phân biệt đối xử mà.”

Cứ đều đều như vậy. Từng người một nói chuyện với nhau, chẳng ai thèm lắng nghe ai cả.

“Có một đám ở hướng hai giờ!”

“Khách hàng thứ ba mươi lăm của chúng ta trong ngày hôm nay đây!”

“Thằng chó nào gửi cho tao cái tệp tin nặng tổ bố thế này hả? Chúng ta đang ở giữa trận chiến đấy, đưa cho bố mày làm gì!”

“Trời ạ, tao cần hút thuốc.”

“Câm mồm lại và bắn đi!”

Những chiến binh nơi tiền tuyến lao ra ngoài lớp màng che chắn, nâng cao súng lên hướng về phía lũ nhúc nhúc đang ùn ùn kéo tới. Đạn xé gió bay đi, nhưng cuộc tiến công của Mimic vẫn không hề ngơi nghỉ. Tôi siết chặt cán rìu.

Không hề có một cảnh báo, một quả bom rơi từ trên trời xuống. Quả bom định vị laser chính xác tuyệt đối phá tan nền đất, đào sâu xuống lòng đất trước khi nổ tung. Bè lũ Mimic đổ nhào xuống hố.

Một chiếc Chiến giáp đỏ rực xuất hiện giữa cơn mưa của đất và bùn. Cục Volfram Cacbua xẻ ngang xẻ dọc trước những cái chân bạch tuộc vung vẩy và những cái thân dày trông như con ếch. Sau vài phút, số lượng vật thể còn di chuyển được chỉ còn là con số không. Không còn sót lại một con quái vật ngoài hành tinh nào.

Xung điện tràn vào tai tôi, rồi giọng nói của cô ấy vang lên. “Xin lỗi vì đã bắt anh chờ.” Full Metal Bitch đứng dậy, nhấc chiếc rìu chiến khổng lồ lên, đứng giữa tiểu đội chỉ toàn một màu cát là chúng tôi. Bộ giáp làm bằng thép súng đỏ rực ấy sáng long lanh dưới ánh mặt trời.

Tôi vươn tay ra để cô ấy có thể kéo tôi ra khỏi đám đông. “Bọn tôi cũng chỉ vừa mới tới thôi.”

“Full Metal Bitch làm cái quái gì ở đây thế?” Yonabaru quên béng cả chuyện gỡ tấm màn che chắn ra và ngây ngốc nhìn Chiến giáp của cô ấy. Hắn ta mà đem cái mặt đó đi đóng phim hài thì phải kiếm bộn tiền.

Rita nhìn về phía Ferrell. “Tôi cần nói chuyện với người chịu trách nhiệm cho tiểu đội này. Kết nối với tôi.”

Ferrell mở kênh liên lạc giữa Rita và trung úy. “Xin chào.”

“Đây là Rita Vrataski. Tôi có một yêu cầu trước sĩ quan phụ trách Tiểu đội #3 của Đại đội #17, Tiểu đoàn #3, Trung đoàn #12, Đơn vị Bộ binh Vũ trang #301. Tôi cần mượn Keiji Kiriya. Anh thấy có được không?”

Cô ấy không thông báo quân hàm hay chức vụ. Trong nền văn hóa quân sự nơi sĩ quan cấp cao của bạn nói 1+1=3 thì 1+1 quả thực bằng 3, chỉ có Valkyrie có quyền hành động nằm ngoài hệ thống cấp bậc. Kể cả trong trận chiến đầu tiên, người đỡ lấy đầu tôi khi tôi đang nằm chết dần cũng không phải là Full Metal Bitch. Đó là Rita Vrataski.

Trung úy đáp lại với giọng đầy hoài nghi. “Kiriya á? Có lẽ cô sẽ cần người với nhiều kinh nghiệm hơn, người ––“

“Chấp thuận hay không?”

“Chà, uhm, có.”

“Tôi rất cảm kích trước sự giúp đỡ của anh. Trung sĩ, còn anh thì sao? Tôi mượn Kiriya được chứ?”

Ferrell nhún vai đồng ý, đôi vai Chiến giáp ấy nâng lên như cơn sóng từ đại dương.

“Cảm ơn, Trung sĩ.”

“Cẩn thận đừng để nó nhảy jitterbug gần đội của chúng tôi.”

“Jitterbug? Mật mã à?” Rita hỏi.

“Chỉ là một kiểu nói chuyện thôi mà.”

“Keiji, thế này là sao?”

“Xin lỗi, Trung sĩ. Em sẽ giải thích sau,” Tôi nói.

“Chúng ta sẽ tấn công chúng từ hướng mười hai giờ.”

“Uh, được.”

“Này, Keiji! Nếu chú mày thấy cái máy bán hàng tự động nào, nhớ mua hộ anh gói thuốc!” Yonabaru gọi ngay trước khi tôi ngắt kết nối khỏi đường dây liên lạc.

Rita cười khúc khích trước trò hề của Nijou. “Anh có một đội tốt đấy. Sẵn sàng chưa?”

“Nhẹ nhàng thôi đấy.”

“Tôi lúc nào mà chả nhẹ nhàng.”

“Thế mà tôi nghe đồn là không phải vậy đâu nha.”

“Tập trung vào lũ Mimic đi.”

Dậm chân lên thành hố bom, điên cuồng quờ quạng, và cuối cùng từng con, từng con một, lũ Mimic bắt đầu leo ra khỏi cái hố mà Rita đào xuống trên mặt đất. Chúng tôi cắm mặt lao tới đàn Mimic. Khắp mặt đất phủ kín những con ếch sưng phồng.

Chạy. Bắn. Rút. Thay đạn. Chạy tiếp. Bắn. Hít thở.

Những quả bom chính xác lao xuống tìm lũ Mimic đang lẩn trốn. Khói cuồn cuộn bốc lên nơi chúng tìm thấy con mồi. Cát và bụi theo cùng khói lơ lửng trên không, và đàn Mimic không còn xa nữa. Chúng tôi lao tới hố bom và lấy ra mọi thứ mà quả bom để lại. Lôi chúng ra, đánh chết chúng.

Kể cả khi bạn chỉ lặp lại một ngày hết lần này qua lần khác, cuộc sống trên chiến trường cũng chỉ là việc thường ngày không hơn. Nếu góc chém của bạn bị sai quá nhiều, nó sẽ gây ra một chuỗi hệ quả dẫn tới sự thay đổi hoàn toàn kết cục trận đấu. Một con Mimic bạn để thoát trong một phút có thể sẽ là hung thần tàn sát đồng đội của bạn. Mỗi một người lính hy sinh, chiến tuyến lại càng trở nên mỏng manh, và rồi cuối cùng sụp đổ trước áp lực của quân thù. Tất cả bởi vì bạn đã vung chiếc rìu ở góc bốn mươi bảy độ thay vì bốn mươi tám độ.

Lũ Mimic nhiều tới mức tôi chẳng đếm xuể. Những chấm sáng phủ kín màn hình rada Doppler. Có một luật bất thành văn là cần một đội mười Chiến giáp để hạ gục một con Mimic. Kể cả vậy, để trận chiến trở nên công bằng đội đó phải tách nhau ra để nhả đạn vào người chúng cho tới khi chả còn viên đạn nào.

Rita hành động như đã được lập trình. Cô vung vẩy chiếc rìu nhẹ nhàng như đứa trẻ vung thanh kiếm đồ chơi. Không khí ngập tràn những mảnh vỡ của Mimic. Thêm một bước nữa, chém thêm một nhát nữa, lại một cái chân bạch tuộc nữa ra đi. Giặt, giũ, lặp lại.

Đây là lần đầu tiên tôi thấy cảnh này. Những mũi giáo mang theo cái chết lướt trong không trung. Tôi đứng gần tới mức có thể vươn tay ra chạm lấy cả nửa tá Mimic. Mặc dù nguy hiểm rình rập khắp nơi quanh mình, tôi vẫn cảm thấy trấn tĩnh một cách kỳ lạ. Có người đang bảo vệ sau lưng tôi. Rita là một chiếc máy lọc có thể chưng cất và trung hòa nỗi sợ. Tôi đang ở giữa một thung lũng ngập tràn bóng ma tử thần, chẳng có cách nói nào chính xác hơn đâu, nhưng tôi có Rita bên mình.

Tôi học cách sống sót bằng cách bắt chước những kĩ năng của Rita với chiếc rìu, và trong quá trình đó, tôi đã biết được hết mọi bước di chuyển của cô ấy –– cô ấy sẽ bước chân trái hay chân phải tới, cô ấy sẽ bắn con Mimic nào khi bị bao vây. Tôi biết khi nào cô ấy sẽ vung rìu, và khi nào cô ấy sẽ chạy. Tất cả chỗ đó, và còn hơn thế nữa, đều được khắc ghi ngay trong hệ điều hành của tôi.

Rita bỏ lại nguy hiểm sang một bên và lao tới đơn vị của kẻ thù, vạch ra một hành lang hủy diệt. Thứ duy nhất cô để lại sau lưng là những đối tượng cô chẳng thèm giết. Tôi chỉ đơn giản là quá thoải mái khi được đứng sau dọn dẹp chỗ còn lại hộ cô ấy. Chúng tôi chưa từng luyện tập cùng nhau, nhưng chúng tôi di chuyển như một cặp sinh đôi, những cựu binh đã trải qua vô vàn trận chiến bên nhau.

Bốn con Mimic lao tới chỗ Rita cùng một lúc –– không phải chuyện đơn giản, kể cả với Valkyrie. Cô ấy vẫn đang mất thăng bằng sau cú chém cuối cùng. Bằng tay không, tôi thúc nhẹ cô ấy bằng khuỷu tay. Cô có giật mình trong tích tắc, nhưng cô cũng chẳng mất quá nhiều thời gian để hiểu được việc tôi làm.

Cô ấy quả thực là một bậc thầy. Trong chưa đầy năm phút, cô ấy đã học được cách phối hợp cùng với tôi. Khi cô ấy nhận ra tôi có thể dùng một tay hay một chân đang rảnh để loại bỏ dư chấn sau một đòn đánh, cô quay đầu và đối mặt với kẻ thù, không chút ý định né tránh. Một cái chân trước của Mimic chém tới trước mặt cô ấy trong khoảng cách một cánh tay và cô còn chẳng thèm do dự.

Chúng tôi hai mà như một. Tôi và cô ấy càn quét kẻ thù bằng một thứ sức mạnh đáng sợ, luôn để Chiến giáp của đối phương trong tầm mắt. Chúng tôi không cần ngôn ngữ hay cử chỉ. Mỗi bước di chuyển, mỗi bước chân đều đã nói hết những gì cần nói.

Kẻ thù của chúng tôi có thể đã tiến hóa và có khả năng quay ngược thời gian, nhưng nhân loại cũng đã phát triển vài mẹo vặt của riêng nó. Có những người có thể giữ cho Chiến giáp trong điều kiện tối ưu nhất, những người có thể ảnh hưởng tới chiến thuật và bọc lót cho hậu cần, những người có thể hỗ trợ cho tiền tuyến, và hơn hết, những người được sinh ra để trở thành kẻ giết người. Những người có thể khiến bản thân thích nghi với môi trường và những kinh nghiệm của bản thân trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Một kẻ thù có thể nhìn trước tương lai và biết trước được hiểm nguy lại trở thành nạn nhân trước chính sự tiến hóa của nó. Chúng tôi học hỏi nhanh hơn chúng.

Tôi đã trải qua cái chết tận 158 lần, đạt tới trình độ mà không một loài sinh vật nào khác trên hành tinh này có thể đạt tới. Rita Vrataski lại còn ở một cấp độ cao hơn. Chúng tôi lao về phía trước, bỏ lại tất cả những người còn lại, hai chúng tôi là cả một đội quân. Những chiếc Chiến giáp của chúng tôi vạch nên một đường xoắn ốc đầy thanh nhã theo chiều kim đồng hồ dọc trên đoạn đường chúng tôi đi –– một thói quen tôi bắt chước từ Rita. Sau gót chân tôi, tất cả những gì còn lại chỉ là từng núi xác chết.

Bốn mươi hai phút từ khi trận chiến bắt đầu, chúng tôi đã tìm thấy nó. Con Mimic là cái căn nguyên của toàn bộ chỗ vòng lặp chết tiệt nọ. Sợi dây định mệnh kết nối chúng tôi. Nếu không phải vì con server này, tôi sẽ không bao giờ phải chịu cảnh chết chìm trong máu của chính mình, nhìn ruột gan rơi hết ra trên nền đất hàng tá lần, lang thang vô vọng giữa cái Địa ngục không có lối thoát này. Nếu không phải vì con server này, tôi đã không thể gặp Rita Vrataski.

“Là nó đấy, Keiji. Anh phải là người hạ gục nó.”

“Thế thì còn gì bằng.” “Nhớ lấy: đầu tiên là ăng ten, sau đó là lũ backup, rồi con server.” “Và rồi chúng ta sẽ về nhà?” “Cũng không hẳn. Khi vòng lặp kết thúc, trận chiến thực sự sẽ bắt đầu. Mọi chuyện chỉ kết thúc khi chẳng còn con Mimic nào cử động.” “Quả nhiên chả có gì là đơn giản cả.”

* * *

Tận diệt là cách duy nhất để chiến thắng trong trận chiến này. Bạn không thể tuyên bố chiến thắng khi chỉ mới tiêu diệt được 70 phần trăm lực lượng của chúng. Bạn phải tiêu diệt hết thảy. Hạ gục con server, và trận chiến sẽ tiếp tục. Tất cả những gì tôi và Rita có thể làm là giải phóng đồng đội của chúng tôi khỏi cảnh sa lầy trong những vòng lặp thời gian ấy. Một chiến thắng lâu dài cần nhiều hơn hai người lính. Nhưng vào cái ngày chúng tôi chiến thắng, tôi có thể chết, Rita có thể chết, Yonabaru, Ferrell và những người còn lại trong tiểu đội đều có thể chết, kể cả mấy con chó trong đội #4 cũng có thể chết, và thời gian sẽ không bao giờ lặp lại. Một ngày mới sẽ bắt đầu trên Trái đất.

Rita nói hạ gục Mimic server đơn giản y hệt mở lon đồ hộp vậy. Tất cả những gì bạn cần là cái mở đồ hộp thích hợp. Buồn thay, cho tới nay cô ấy là người duy nhất trên hành tinh có cái mở đồ hộp ấy.

Loài người trên Trái đất, hãy ăn mừng đi! Keiji Kiriya đã tìm ra một cái mở đồ hộp khác! Đừng chần chừ nữa, từ giờ mỗi khi bạn mua cái mở đồ hộp thương hiệu Rita Vrataski, bạn sẽ nhận được thêm một cái mở đồ hộp hiệu Kiriya mà KHÔNG PHẢI TRẢ THÊM MỘT ĐỒNG NÀO!

Tất nhiên, bạn có muốn cũng không thể mua riêng một trong hai chúng tôi. Tôi nghĩ Rita và tôi không phải là người bán hàng trung thực gì cho cam. Khi hai người cùng phải chịu thứ vòng lặp điên rồ và tàn ác này đã gặp được nhau, đừng để ai chia cắt họ. Chỉ có Rita và tôi hiểu rõ nỗi cô đơn của nhau, và chúng tôi sẽ đứng bên nhau, thái lũ Mimic thành thịt viên cho tới khi nỗi cay đắng này kết thúc.

* * *

“Phá xong ăng ten!”

“Lại chỗ lũ backup đi.”

“Rõ.”

Tôi giơ cao chiếc rìu chiến lên và chém xuống, một nhát thật ngọt ––

* * *

Tôi mở mắt ra. Tôi đang nằm trên giường.

Tôi lấy một cây bút và viết “160” trên mu bàn tay. Rồi tôi đá thật mạnh, mạnh hết mức có thể lên bức tường.

2

Không hề đơn giản để kể cho một người về chuyện mà bạn biết chuyện đó sẽ khiến người kia khóc. Và nếu Jin Yonabaru là người đó, vậy có nghĩa là bạn đang ngồi trên cái xuồng cao su bị thủng đáy giữa dòng nước lũ.

Lần trước hình như hơi gượng gạo quá. Tôi đã cố tìm cách tốt hơn để nói ra, nhưng tôi không tài nào nghĩ ra cách nào ngắn gọn và tử tế hơn để nói cho Rita biết rằng tôi cũng bị kẹt trong vòng lặp. Có lẽ tôi nói toạc ra có khi lại hay hơn. Chết tiệt, chẳng có ý tưởng nào hay ho cả.

Tôi không phải là người đặc biệt thông minh, và cái bộ não tí hon của tôi vẫn đang choán đầy cái suy nghĩ tại sao tôi vẫn không phá vỡ được vòng lặp dù mọi chuyện vẫn diễn ra theo kế hoạch. Tôi đã làm tất cả mọi thứ đúng theo những gì Rita bảo, nhưng giờ tôi vẫn ở đây, cái ngày trước khi bắt đầu trận chiến thứ 160.

Bầu trời trên sân huấn luyện số 1 vẫn trong xanh y như 160 lần trước đó. Mặt trời buổi 10h sáng thiêu đốt chúng tôi không chút khoan nhượng. Buổi tập thể hình vừa kết thúc, và những cái bóng đọng dưới chân chúng tôi nay được tô điểm thêm bằng từng giọt mồ hôi.

Tôi là một người hoàn toàn xa lạ với người con gái với mái tóc màu sắt rỉ cùng làn da quá nhợt nhạt với một người lính. Đôi mắt nai màu nâu kia chĩa vào tôi.

“Vậy anh muốn nói chuyện à. Có chuyện gì?”

Tôi đã hết thời gian suy nghĩ rồi, và trong đầu thì có ý tưởng nào hay ho đâu. Đáng ra tôi nên kéo cô ấy ra một chỗ riêng tư để nói chuyện trước buổi thể hình. Giờ thì quá muộn rồi.

Tôi nhìn Rita và nói mấy thứ lảm nhảm về trà xanh y hệt trước đó. Này, lần này có vẻ không tệ như lần trướng, tôi nghĩ. Có lẽ cô ấy sẽ không –– oh, fuck.

Nước mắt chảy thành dòng trên đôi má, nhỏ lách tách từng giọt dưới đáy cằm rồi vỡ tung ra khi rớt xuống lòng bàn tay mà tôi đưa ra để đón lấy chúng. Tôi vẫn còn nóng bừng bừng sau buổi tập, nhưng những giọt nước mắt ấy bỏng cháy như những viên đạn 20mm. Tim tôi đập thình thịch. Tôi cứ như một chàng học sinh cấp ba đang mời một cô bạn gái cùng nhảy. Kể cả trong trận chiến huyết áp của tôi cũng không lên cao tới mức này.

Rita túm lấy chân áo của tôi, siết chặt tới mức từng đầu ngón tay trắng bệch ra. Trên chiến trường tôi có thể thấy trước mọi bước di chuyển trước cả khi cô ấy có hành động gì, nhưng tại đây tôi hoàn toàn không chút manh mối. Tôi đã tự lập trình bản thân hòng tránh né cả ngàn đòn tấn công từ phía Mimic nhẹ nhàng như không, nhưng cái hệ điều hành này thực sự chả được cái tích sự gì khi tôi thật sự cần tới nó. Đầu óc tôi rối bời, cố tìm một lối thoát. Tôi tự hỏi không biết cái áo nơi cô ấy đang cầm đã ướt đẫm mồ hôi chưa.

Lần trước, tôi đã đứng như tượng nữ thần tự do cho tới khi Rita bình tĩnh lại và nói chuyện. Có lẽ sau khoảng mười lần như thế này nữa chuyện này sẽ thành thói quen mất. Tôi biết mình cần nói gì để làm cô ấy bình tâm lại khi nhẹ nhàng ôm cô ấy tựa vào vai tôi. Tuy nhiên điều đó đồng nghĩa với việc tôi sẽ làm giảm mối tương tác giữa người đầu tiên và duy nhất trên thế giới này hiểu tôi rõ ràng nhất. Có gì đó mách bảo tôi tốt nhất là cứ đứng đó mà chịu trận.

Yonabaru đang há hốc mồm nhìn chúng tôi cứ như một vị khách tham quan tới thăm sở thú há to miệng trước một con gấu đột nhiên đứng dậy và bắt đầu nhảy điệu van xơ. Ít nhất thì tôi cũng đã tìm ra cách khiến hắn ta ngậm mồm lại. Ferrell rất chi là tế nhị liếc nhìn đi chỗ khác, nhưng vẫn he hé nhìn lại. Và đó đại khái cũng là cách tất cả những người còn lại trong tiểu đội phản ứng. Trời ạ. Tôi là một con gấu đang khiêu vũ. Đừng nhìn chằm chằm mà. Đừng nói gì hết. Chỉ cần ném tiền lẻ vào cái lon và cút đi.

Bạn nên làm gì khi bạn lo lắng –– khỏa thân trước mặt mọi người chăng? Không, cái đó dành cho lúc bạn phải nói chuyện trước đám đông. Trong huấn luyện họ dạy chúng tôi để khiến bản thân bình tĩnh lại thì tốt nhất là nên nghĩ về thứ gì đó chúng tôi thích. Thứ gì đó khiến chúng tôi cảm thấy vui vẻ. Trong chiến đấu, đây hẳn sẽ là hồi ức tươi sáng nhất để mà ngẫm nghĩ lại, vậy tại sao giờ tôi lại căng thẳng thế này? Nếu Chúa thật sự có câu trả lời thì ông ta cũng chẳng thèm mở miệng ra đâu.

Tôi kéo Rita lại bằng cổ tay. Cô ấy trông rất bối rối.

“Tôi là Keiji Kiriya.”

“Rita. Rita Vrataski.”

“Tôi đoán tôi nên nói ‘Rất vui được gặp cô’.”

“Sao anh lại cười?”

“Ai biết. Chắc là do hạnh phúc, chắc vậy,” Tôi nói.

“Anh thật là một người kỳ lạ.” Khuôn mặt của Rita giãn ra.

“Thư giãn một chút nào.” Đôi mắt tôi nhìn về phía vai cô ấy. “Tôi có hai giờ đồng hồ. Cô sẵn sàng chưa?”

Rita và tôi hộc tốc chạy đi, để lại những gã còn lại trên sân gãi đầu như bị hủi. Chúng tôi băng qua hàng rào sân huấn luyện. Cơn gió phơn thổi từ đại dương khiến làn da chúng tôi mát lạnh. Suốt một hồi chúng tôi chạy chỉ vì được chạy. Bờ biển trải dài bên trái chúng tôi, làn nước xanh thẫm màu cô ban vươn xa bên ngoài hàng rào dây thép gai vô tích sự căng dọc bờ biển. Đại dương vẫn xanh màu trời vì chúng tôi đã tìm ra cách giữ lấy màu xanh ấy. Một con tàu tuần tra rẽ sóng tạo thành một vệt dài trắng xóa song song với lằn ranh phân cách bầu trời cùng đại dương.

Tiếng hét của những người lính nhạt nhòa dần và tan biến. Thứ âm thanh duy nhất còn sót lại là tiếng gầm của biển khơi, những âm thanh xáo trộn khi dày quân dụng đạp trên bê tông, tiếng tim đập siêu hỗn loạn của tôi và tiếng thở dài của cô ấy.

Tôi đột nhiên ngừng chạy và đứng sững lại, y hệt như khi chúng tôi đột ngột chạy đi ấy. Rita không thể phanh lại kịp và đâm sầm vào tôi. Hệ điều hành lại một lần nữa sập nguồn. Tôi bước vài bước trông rất kì. Rita thì trượt chân khi cố lấy lại thăng bằng. Chúng tôi tựa vào nhau để tránh ngã xuống. Bàn tay tôi vòng ra sau lưng Rita và tay cô ấy cũng ở sau lưng tôi.

Mọi nỗ lực điều chỉnh lại cho cân bằng bị cú va chạm làm cho hỏng bét. Làn da cô ấy tì vào người tôi cứ như vỏ giáp vậy. Một cảm giác thoải mái xâm chiếm mọi giác quan. Không có Chiến giáp, tôi hoàn toàn không chút phòng bị trước bất kỳ hóa chất rải rác nào trong không trung.

“Uh, xin lỗi.” Rita là người đầu tiên xin lỗi.

“Không, là lỗi của tôi. Tôi không nên dừng lại đột ngột.”

“Không. Ý tôi là, xin lỗi, nhưng ––“ cô ấy nói.

“Cô không cần phải xin lỗi đâu.”

“Tôi không phải đang muốn xin lỗi. Chỉ là –– anh có thể thả tay tôi ra không?”

“Ah–“ Một vết hằn đỏ nổi lên trên cổ tay Rita, nơi những ngón tay tôi bóp chặt. “Xin lỗi.”

Với tôi, Rita là một người bạn cũ, một người đồng chí trong vô vàn trận chiến. Nhưng với cô ấy, Keiji Kiriya là một người hoàn toàn xa lạ mà cô chỉ vừa mới gặp. Chẳng là gì khác ngoài một bóng hình mờ nhạt từ một khoảng thời không khác. Chỉ có mình tôi nhớ mãi không quên cảm giác thoải mái khi chúng tôi đứng tựa lưng vào nhau. Chỉ có mình tôi được trải nghiệm cảm giác từng luồng điện chạy dọc giữa chúng tôi khi đôi mắt hai người bọn tôi chạm nhau và hiểu được ý định của nhau trong tích tắc. Chỉ có tôi mới có cái thứ cảm giác mong đợi và khát khao ấy.

Trước khi tôi vào quân đội, tôi đã từng xem một chương trình nói về một người đàn ông yêu một người phụ nữ bị mất trí sau một tai nạn. Anh ta hẳn đã phải trải qua những thứ tôi đang trải qua lúc này. Vô vọng đứng nhìn tất cả những gì bạn yêu quý trong thế giới này bị cuốn bay theo làn gió trong lúc bạn chỉ có thể đứng nhìn và bất lực.

“Tôi.... chà...” Tôi thậm chí còn không biết phải nói gì với cô ấy lúc này, mặc dù đã có vòng lặp trước.

“Đây là cái ý tưởng thông minh của anh để đưa hai chúng ta tới đây phỏng?”

“Ừ. Chắc vậy.”

“Tốt thôi. Giờ chính xác thì ta đang ở đâu?” Rita quay gót và nhìn xung quanh.

Chúng tôi đang đứng trên một khoảng không rộng được rào một bên bởi lưới dây thép gai còn ba bên còn lại là hàng rào. Cỏ mọc lên một cách tài tình trên những khe nứt của bê tông, bao phủ diện tích gần mười ngàn mét vuông.

“Sân huấn luyện #3.”

Tôi đã thành công đưa cô ấy từ một sân huấn luyện tới một sân huấn luyện khác. Hay đấy. Tôi đã dành quá nhiều thời gian ở với Ferrell rồi. Tình yêu với huấn luyện của anh ấy sắp đạt đến mức bệnh thần kinh rồi, và nó còn bắt đầu lây sang tôi nữa chứ.

Rita quay về phía tôi. “Nơi này hoang vắng quá.”

“Xin lỗi.”

“Không, tôi thích sự trống vắng ở nơi đây.”

“Khẩu vị cô thật kỳ lạ.”

“Cái đó cũng gọi là khẩu vị à? Nơi tôi lớn lên trống vắng một cách tuyệt vọng. Chúng tôi còn chẳng có biển. Bầu trời ở đây –– thật tuyệt,” cô ấy nghiêng đầu và nói.

“Cô thích nó à? Bầu trời ấ?”

“Không phải bầu trời mà là cái màu của nó. Cái màu xanh lung linh mờ ảo ấy.”

“Thế vậy tại sao chiến giáp của cô lại màu đỏ?”

Một khoảnh khắc im lặng bao trùm lấy chúng tôi, rồi cô ấy nói tiếp.

“Bầu trời tại Pittsfield trống hoác. Cứ như màu của nước sau khi anh rửa cây cọ vẽ còn dính sơn xanh bên trên ấy. Cứ như tất cả nước dưới mặt đất lao lên bầu trời và bám dính trên đấy.” Tôi nhìn Rita. Cô ấy nhìn lại tôi, đôi mắt nâu dày nhìn tôi chằm chằm không dứt, “Xin lỗi. Quên những gì tôi vừa nói đi,” cô ấy nói.

“Sao thế?”

“Đó không phải là những điều Rita Vrataski nên nói.”

“Tôi không biết đấy.”

“Nhưng tôi biết.”

“Chà, tôi nghĩ nó cũng hay mà,” Tôi nói.

Rita mở lớn hai mắt. Trong một khoảnh khắc, chúng lóe lên cái gì đó chỉ của riêng Full Metal Bitch. Toàn bộ những phần còn lại trên mặt vẫn y như vậy. “Anh nói gì cơ?”

“Tôi nói nó nghe cũng hay mà.”

Cô ấy nhìn tôi đầy kinh ngạc. Mái tóc đỏ màu sắt rỉ bay phấp phới trước trán, và cô ấy đưa tay lên vuốt lấy nó. Tôi thoáng thấy đôi mắt cô ấy giữa những kẽ tay. Chúng lấp đầy những tia sáng kỳ lạ. Cô ấy trông như một cô gái với những mối tơ vò trong tim đang dần được tháo gỡ, một đứa trẻ bị lộ tẩy những lời nói dối trước ánh mắt sắc nhọn của mẹ.

Tôi mở lời phá vỡ sự im lặng kì dị. “Có gì không ổn sao?”

“Không.”

“Tôi không có trêu cô đâu. Đó chỉ là thứ tôi muốn nói. Chắc là tôi căn thời điểm không chuẩn.”

“Chúng ta đã từng có một buổi nói chuyện như thế này vào vòng lặp trước, đúng không? Nhưng chỉ có mình anh nhớ,” Rita nói.

“Ừ, tôi xin lỗi.”

“Không sao, tôi không phiền đâu,” cô ấy lắc đầu nói.

“Vậy thì có chuyện gì?”

“Hãy nói cho tôi nghe xem anh định làm gì.”

“Chà, có rất nhiều thứ tôi vẫn chưa hiểu,” Tôi nói. “Tôi cần cô giải thích làm thế nào để kết thúc vòng lặp, đủ dễ hiểu cho người mới bắt đầu.”

“Tôi đang hỏi anh định làm gì tiếp theo để khiến tôi đỡ nhọc công phải nghĩ về chuyện đó.”

“Cô đùa à?” Tôi hỏi.

“Tôi cực kỳ nghiêm túc đấy.”

“Nhưng cô là Rita Vrataski. Cô luôn biết mình phải làm gì.”

“Sẽ rất vui khi trở thành người đứng ngoài vòng lặp một lần chứ sao.”

“Tôi thì không mấy vui vẻ đâu,” Tôi nói. Tôi tự hỏi ý cô ấy là gì khi nói “sẽ”; Tôi nghĩ cô ấy đã được giải thoát khỏi vòng lặp rồi, sau 211 lần trải qua 30 tiếng tại Florida. Tôi há miệng định hỏi, nhưng cô ấy cắt ngang.

“Tôi nghĩ tôi được quyền ngồi không và quan sát một lần chứ,” cô ấy nói. “Tôi đã phải chịu đựng quá nhiều rồi. Lần này tới lượt anh. Anh nên chấp nhận sự thật sớm đi thì hơn.”

Tôi thở dài. “Được rồi.”

“Này, đừng trách tôi chứ.”

“Chà, nếu vậy, giờ thì vẫn hơi sớm, nhưng điểm dừng tiếp theo của tôi là căn tin. Tôi hy vọng cô có tâm trạng thưởng thức đồ ăn Nhật.”

Căn tin đang vô cùng náo nhiệt. Tại một góc, một nhóm lính tráng đang nhìn xem ai là người chống đẩy được nhiều nhất trong ba phút. Một nhóm khác chúng tôi đi ngang qua thì đang chơi trò thi ăn với một thứ chất lỏng thần bí trông như một hỗn hợp của nước sốt cà, mù tạt và nước cam. Tại phía đằng xa nơi cuối căn phòng có vài gã đang hát dân ca và nhạc cổ truyền –– hoặc ít nhất cũng là một bài nhạc nền anime cũ xưa–– thứ nổi tiếng ít nhất bảy mươi năm trước, được đệm bằng đàn banjo. Một trong những giáo phái của lũ người phản động đã dùng nó làm bài ca phản đối chiến tranh, nhưng các vấn đề chi tiết không phải là thứ khiến những gã tại UDF quan tâm. Giai điệu dễ nhớ, chỉ cần thế là đủ để trở thành một bản hit với một đống lính Chiến giáp.

Hãy cùng đi– lính!

Hãy cùng đi– lính!

Hãy cùng đi– lính!

Và tự mình giết vài mống!

* * *

Tôi đã xem cảnh này 159 lần. Nhưng từ khi tôi bị kẹt trong vòng lặp, tôi rất hiếm khi để ý tới những chuyện tại thế giới thực mà không ảnh hưởng trực tiếp tới tôi. Tôi ngồi yên lặng tại một góc nhỏ trong căn tin, cách âm tốt, máy móc nhét thức ăn vô vị vào miệng.

Kể cả trận chiến ngày mai có diễn ra tốt đẹp, vẫn sẽ có vài người lính tại đây chẳng thể quay về. Nếu diễn ra không tốt, số người có thê quay về sẽ còn ít hơn. Ai cũng biết điều đó. Bộ binh trọng giáp là ông già Noel, và chiến trận là lễ giáng sinh của chúng tôi. Những tinh linh còn có thể làm gì trong ngày Giáng sinh nữa ngoài xõa tóc ra và uống một chút rượu đánh trứng.

Rita ngồi đối diện với tôi, ăn bữa ăn trưa giống như 160 lần trước. Cô ấy thử nghiệm món mơ muối lần thứ 160.

“Có chuyện gì à?”

Mơ muối. Đó là mơ ­­–– người ta gọi nó là quả mận, nhưng nó giống quả mơ hơn –– sấy khô dưới ánh mặt trời, và rồi cô đem nó đi ngâm. Ăn thử đi.”

“Nó có vị ra sao?”

“Thức ăn cũng như chiến trường. Cô phải tự cảm nhận thôi.”

Cô ấy cố gắp hai tới ba lần bằng đũa, rồi mặc kệ hết thảy và bỏ cả quả vào miệng. Vị chua tràn ngập khoang miệng cứ như cơ thể bị nổ tung trước một tay đấm hạng cân nặng và cô ấy bị bẻ người cong oằn, lấy tay ôm lấy cổ họng và ngực. Tôi như thấy từng thớ cơ co giật sau lưng cô ấy.

“Thích không?”

Rita chu môi lên mặc dù chẳng ngước lên trên. Cổ của cô căng lên. Có gì đó bay ra khỏi miệng cô –– một hạt mơ sạch bong kin kít đáp xuống cái khay. Cô lấy tay chùi khóe miệng và hít thở sâu.

“Chả chua tí nào.”

“Ở căn tin này người ta đã cố tình muối cho bớt chua đi đấy,” Tôi nói. “Quá nhiều người nước ngoài ở đây mà. Hãy đến thử một vùng địa phương nếu cô muốn hàng thật.”

Tôi gắp một quả mơ muối từ cái khay và đút vào miệng. Tôi nhấm nháp hương vị cứ như thưởng thức một tách cà phê. Nói thật, nó chua tới mức khiến miệng tôi vặn vẹo méo mó, nhưng tôi sẽ không để cô ấy được thỏa mãn khi thấy cảnh đó đâu.

“Khá ngon.” Tôi chắt lưỡi.

Rita đứng dậy, mặt đầy nghiêm nghị. Cô để mặc tôi ngồi trên bàn rồi đi ra chỗ hành lang giữa hai dãy bàn, đi ngang qua mấy thằng lính và đi tới quầy phục vụ. Tại đó, Rachel đang nói chuyện với một con gorilla có thể vươn tay chạm tới trần nhà mà không cần phải nhón chân quá sức – vẫn con gorilla từ vòng lặp #4, cái con đã đấm vào hàm tôi trong tất cả những vòng lặp trước. Người đẹp và Quái thú trông ngạc nhiêm một cách khó hiểu khi thấy chủ đề trong cuộc nói chuyện của họ đi thẳng tới chỗ họ. Toàn bộ căn tin dường như đều thấy có gì đó đang căng lên; những cuộc chém gió tạm ngưng, và nhạc banjo ngừng lại. Cảm ơn Chúa.

Rita đằng hắng để trong giọng. “Cho tôi ít hạt mận khô được không?”

Mơ muối?”

“ừ, chính nó.”

“Chà, được thôi, nếu cô thích.”

Rachel lấy ra một cái đĩa nhỏ và bắt đầu đổ đầy nó bằng món mơ muối từ một cái xô bằng nhựa to.

“Tôi không cần cái đĩa.”

“Gì cơ?”

“Thứ cô đang cầm bằng tay phải. Vâng, là cái xô. Tôi sẽ lấy tất cả chúng.”

“Um, người ta thường không ăn nhiều đến thế trong một lần,” Rachel nói.

“Đó là vấn đề à?”

“Không, chắc vậy– “

“Cảm ơn vì đã giúp đỡ.”

Cầm cái xô trên tay, Rita hân hoan quay lại. Cô ấy thả cái phịch xuống ngay giữa cái bàn trước mặt tôi.

Đường kính miệng xô khoảng ba mươi centimet – một cái xô to tổ bố đủ mơ muối cho khoảng hai trăm người, do chẳng có ai muốn nhiều hơn một quả - được gói hờ trên nóc bằng tờ giấy dầu với dòng chữ đỏ rực mơ muối. To tới mức có thể dìm chết cả một con mèo nhỏ. Cuống lưỡi tôi tê rần khi vừa nhìn thấy nó. Rita đi lấy đôi đũa.

Cô ấy lôi ra một hạt nhăn nheo và đỏ au từ trong xô và đút vào miệng mình. Cô ấy nhai, cô ấy nuốt. Hạt rơi ra khay.

“Chả chua tí nào.” Mắt cô ấy ngân ngấn nước.

Rita đẩy cái xô về phía tôi. Tới lượt của tôi. Tôi chọn quả bé nhất tôi tìm thấy được và bỏ vào miệng. Tôi ăn vào và nhả hạt ra.

“Tôi cũng thấy vậy.”

Chúng tôi đang chơi trò thi ăn của riêng mình. Đầu đũa của Rita rung lên khi cô chọc chúng vào lại trong hũ. Cô nỗ lực hai lần để gắp một quả mơ muối khác bằng đũa trước khi từ bỏ và dùng một cây đũa đơn chọc vào hạt mơ, đưa lên miệng. Nước ngâm chảy long tong từng giọt màu tím, bôi bẩn cái khay khi chúng rơi xuống.

Đám đông những kẻ thích hóng hớt bắt đầu tụ tập quanh chúng tôi. Ban đầu họ quan sát trong im lặng một cách gượng gạo, nhưng cơn phấn khích nổi lên một cách đáng kể trước mỗi hạt được nhả ra khay.

Mồ hôi nhễ nhại trên da chúng tôi như những giọt nước đọng bên ngoài lon bia lạnh trong những ngày nóng nực. Rachel đang đứng ở một bên, quan sát toàn bộ với một nụ cười lo lắng trên môi. Tôi nhận ra anh bạn ở đội #4 đang ở trong đám đông nữa. Anh ta đang rất khoái trá ngắm nhìn tôi chịu đựng cái trò này. Mỗi lần Rita hay tôi bỏ một hạt vào miệng, một tràng cổ động sôi trào giữa đám đông.

“Coi nào, ăn tiếp đi!”

“Không còn đường lui đâu, cố mà nuốt đi!”

“Mày không định để con bé con này thể hiện đó chứ?”

“Fuck, mày nghĩ hắn có thể hạ gục Rita à? Mày điên rồi!”

“Ăn đi! Ăn đi! Ăn đi!”

“Để ý mấy cánh cửa, đừng để ai can thiệp vào! Tao đặt mười đô cho thằng gầy!” ngay tức khắc có gã theo cược, “Hai mươi cho Rita!” Rồi có ai đó hét lên, “Con tôm của tôi đâu? Tôi làm mất con tôm của tôi rồi!”

Nóng. Ầm ỹ. Và không chỉ thế, không hiểu vì lý do gì, tôi cảm thấy như ở nhà. Có một mối liên kết vô hình chỉ có ở đây mà không ở những vòng lặp trước. Tôi cảm giác được ngày mai sẽ ra sao, và đột nhiên tất cả những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống của chúng tôi, những điều vụn vặt trong ngày, đột nhiên đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chỉ vừa nãy thôi, tôi có cảm giác bị vây quanh bởi đám đông này cũng không quá tệ.

Cuối cùng, chúng tôi ăn hết sạch tất cả những viên mơ muối trong hũ. Rita ăn viên cuối cùng. Tôi khăng khăng bảo đó là một trận hòa, nhưng do Rita ăn trước nên cô nhất quyết cho rằng mình thắng. Khi tôi phủ nhận, Rita cười rất gian và đề nghị giải quyết chuyện này bằng cách lấy thêm một hũ nữa. Khó mà nói được nụ cười đó nghĩa là cô ấy có thể ăn tiếp hay do bị quá tải vị chua nên đầu óc cô đã hơi chập chập một chút. Con gorilla ở đội #4 mang thêm một hũ đầy mơ đỏ từ Địa ngục ra và thả cái phịch xuống giữa bàn.

Đến lúc đó, tôi có cảm giác từ thắt lưng mình trở xuống chỉ toàn là mơ muối. Tôi đành vẫy cờ trắng.

Sau đó, tôi kể cho Rita nghe về mọi thứ - Yonabaru người không bao giờ ngậm mồm lại được, Trung sĩ Ferrell và niềm đam mê luyện tập của anh ta, mâu thuẫn giữa chúng tôi và đội #4. Về phần mình, Rita kể cho tôi nghe những chuyện cô vẫn chưa kịp kể trong vòng lặp trước. Khi không khoác bộ Chiến giáp của mình, con Bitch kia mang một nụ cười ngượng ngùng hợp với mình hơn. Đầu ngón tay của cô nồng nặc mùi dầu, nước ngâm mơ, và mơ hồ trong đó chút vị cà phê.

Tôi không biết tôi đã thiết lặp sự kiện gì hay bằng cách nào, nhưng trong vòng lặp thứ 160 này mối quan hệ giữa tôi và Rita sâu sắc hơn bao giờ hết. Buổi sáng tiếp theo, Hạ sĩ Jin Yonabaru không thức dậy ở giường trên. Hắn ta thức dậy trên sàn nhà.

3

Tôi không bao giờ có được giấc ngủ ngon. Một con Mimic có thể kết liễu mạng tôi bất kỳ lúc nào, hoặc tôi có thể tắt điện ngay giữa trận chiến. Sau đó ư, chẳng còn gì. Tiếp theo, không hề có một cảnh báo, hư không ập tới. Những ngón tay vốn đang siết cò bỗng dưng lại ở trên cuốn sách bìa mềm. Tôi nhận ra bản thân đang nằm trên giường, bao quanh bởi những ống kim loại, lắng nghe cô nàng DJ với giọng cao vút đọc dự báo thời tiết. Trời đang rất trong xanh và đầy nắng ấm ở ngoài đảo, y như hôm qua, hãy cẩn thận tia cực tím vào buổi chiều. Từng từ một khoan sâu trong sọ tôi rồi kẹt luôn trong đó.

Khi từ “nắng ấm” vang lên là lúc tôi chụp lấy cây bút, đoạn “ngoài đảo” là khi tôi viết con số lên tay, còn khi cô ta nói tới đoạn “tia cực tím” tôi đã bật dậy khỏi giường và chạy tới xưởng vũ khí. Đó là thủ tục thức dậy mỗi ngày của tôi.

Ngủ vào đêm trước trận chiến là một buổi luyện tập kéo dài. Không hiểu vì lý do gì, cơ thể tôi không hề cảm thấy mệt mỏi. Thứ duy nhất xuất hiện trong tôi là những ký ức và những kỹ năng mà tôi thành thục. Tôi dành cả đêm lăn qua lăn lại, đầu óc ngập tràn những bước di chuyển tôi học được vào ngày hôm trước và để nó cài đặt vào não tôi. Tôi phải làm được những gì tôi không thể trong vòng lặp trước, để giết những con Mimic tôi không thể giết, để cứu những người bạn tôi không thể cứu. Y như việc chống đẩy tổng hợp trong đầu vậy. Màn hành xác vào ban đêm của riêng tôi.

Tôi thức dậy trong trạng thái chiến đấu. Giống như phi công gạt từng nút bấm trước khi hạ cánh, tôi kiểm tra từng phần cơ thể, kiểm tra xem có bắp cơ nào bị đau sau tối qua không. Một ngón chân có hơi tím lại cũng không bị tôi bỏ qua.

Xoay mông 90 độ, tôi nhảy ra khỏi giường và mở mắt. Tôi chớp mắt. Mắt tôi nhòe đi. Căn phòng trông khang khác. Cái đầu ông thủ tướng ở trên thân cô nàng người mẫu áo tắm hôm nay không nhìn chằm chằm vào tôi. Ngay lúc tôi để ý, mọi chuyện đã quá muộn; chân tôi bước hụt xuống một bậc thềm vốn dĩ không ở đó và quán tính khiến tôi ngã nhào ra khỏi giường. Đầu tôi va vào sàn nhà lát gạch, và tôi cuối cùng cũng nhớ ra tôi đang ở đâu.

Những tia nắng mặt trời xuyên qua lớp kính chống chấn động và tràn vào trong căn phòng rộng và lộng gió. Một ngọn gió nhân tạo từ máy lọc thổi lên người tôi khi tôi nằm dài trên sàn nhà. Những bức tường cũng những tấm kính dày cách âm hoàn toàn khu căn cứ vốn thường rất ầm ỹ trong tai tôi.

Tôi đang ở trên Phòng nghỉ Ngoài trời. Trong một căn cứ chỉ toàn sắt thép và những thanh gỗ kháng lửa màu kaki, đây là căn phòng đầu tiên và duy nhất xứng với cái từ ‘căn phòng’. Đây vốn là phòng họp của các sĩ quan cấp cao và cũng là phòng tiếp khách, vậy nên quang cảnh ban đêm của Uchibo qua khung cửa sổ lót kính đa lớp ở đây tương đối đáng đồng tiền bát gạo.

Cũng như khung cảnh tuyệt vời, nơi đây không phải là một nơi giúp bạn dễ dàng rời khỏi giường, trừ khi bạn là một con dê núi hay một nhà tu khổ hạnh với tình yêu tuyệt đối tới các đấng trên cao. Hoặc bạn là Yonabaru. Tôi có nghe đồn hắn ta có một chỗ bí mật ở đây, ở tầng cao hơn cả nơi những sĩ quan cấp cao được phép tới. “Cái tổ ấm tình yêu của hắn,” chúng tôi gọi nó là vậy.

Cái ổ chim yêu dấu thì đúng hơn.

Nhìn về phía đại dương tôi có thể thấy được đường chân trời cong cong thoai thoải. Bãi biển Uchibo trông mờ mờ ảo ảo trong làn sương mù buổi ban mai. Từng đợt sóng dâng lên, biến thành bọt trắng rồi tan biến vào trong lòng đại dương. Xa xa bên ngoài những ngọn sóng đó là hòn đảo mà Mimic đã biến nó thành nơi đẻ trứng. Trong tích tắc, tôi nghĩ tôi đã thấy cái gì đó xanh màu lá cây lóe lên trong những ngọn sóng. Tôi chớp mắt. Ở đó chỉ còn lại ánh nắng lấp lóa phản chiếu trên mặt nước.

“Tối qua anh ngủ ngon phết nhỉ.” Rita đi ra từ một căn phòng khác và đứng lại bên tôi.

Tôi từ từ ngước lên. “Cảm giác cứ như hằng bao nhiêu năm trời rồi.”

“Năm?”

“Kể từ lúc tôi có một giấc ngủ ngon. Tôi đã quên mất nó ra sao rồi.”

“Câu chuyện điên rồ về vòng lặp ha.”

“Cô phải biết chứ.”

Rita vẫy tay tỏ ý đồng tình.

Vị cứu tinh của chúng tôi, Full Metal Bitch, sáng hôm nay trông cô thư thái hơn bao giờ hết. Đôi mắt cô ấy dịu dàng hơn trong những tia nắng ban mai, và nắng vàng cũng khiến mái tóc đỏ rực màu sắt rỉ ấy lấp lóa ánh cam. Cô ấy trao cho tôi một ánh mắt y chang ánh mắt cô thường trao cho con cún theo đuôi cô về nhà. Cô ấy điềm tĩnh cứ như một nhà sư. Cô ấy thật xinh đẹp.

Căn phòng đột nhiên bừng sáng, và tôi híp mắt lại trước ánh hào quang. “Mùi gì thế nhỉ?”

Một hương vị rất đặc trưng hòa trộn với không khí trong lành nhả ra từ máy lọc. Nói thật mùi đó cũng không tệ cho lắm, nhưng tôi khó mà coi đó là một mùi hương dễ chịu được. Nếu là của thức ăn thì quá hăng, nếu là của nước hoa thì lại quá nồng. Nói thật, tôi chả biết nó là cái quái gì.

“Tôi chỉ vừa mới mở cái túi ra thôi mà. Mũi của anh thính như gì ấy.”

“Trong huấn luyện họ bảo chúng tôi phải cảnh giác trước bất kỳ mùi vị kỳ lạ nào, do có thể bộ lọc khí của Chiến giáp gặp vấn đề - tất nhiên giờ tôi giờ không ở trong Chiến giáp.”

“Tôi chưa từng gặp người lại lẫn lộn mùi thức ăn và vũ khí hóa học đấy,” Rita nói. “Anh không thích mùi này sao?”

“Thích không phải là từ tôi sẽ dùng. Nó có mùi ... kỳ quái.”

“Chả lịch sự tí nào. Đấy là cách anh nói cảm ơn tôi vì pha cho chúng ta một ấm cà phê vào buổi sáng đấy ư?”

“Đó là .... cà phê à?”

“Tất nhiên rồi.”

“Đây không phải là cách cô trả đũa tôi sau vụ mơ muối đấy chứ?”

“Không, đây là cái mùi đích thực của hạt cà phê thu hoạch từ những cây cà phê đích thực. Chưa từng thử à?”

“Ngày nào mà tôi chả uống cái thứ nước gạo rang nhân tạo ấy.”

“Cứ chờ tới khi tôi pha nó đã. Mùi thế này vẫn chưa là gì đâu.”

Tôi không hề biết rằng hạt cà phê thực thụ vẫn còn tồn tại trên thế giới này. Chuyện là, tôi nghi ngờ rằng dù cà phê thực thụ vẫn còn tồn tại ở đâu đó nhưng cũng khó mà tìm được người vẫn còn giữ được thói quen uống chúng.

Thứ đồ uống thay thế cho cà phê ngày này được làm từ những hạt trồng trong phòng thí nghiệm, với hương liệu nhân tạo để tạo ra mùi vị. Hàng thay thế không thể nặng mùi như những hạt Rita đang xay, và không xộc vào mũi bạn và chui sâu vào từng ngõ ngách trong phổi bạn như chúng làm. Tôi nghĩ bạn có thể coi cái mùi của hàng nhân tạo kia tiệm cận với hàng thật, nhưng cái khoảng tiệm cân kia nó cũng như là cách biệt giữa viên đạn súng ngắn 9mm với vỏ đạn chống tăng 120mm.

“Để lấy được thứ đó cũng cần chút vận may không nhỏ đâu,” tôi nói.

“Tôi đã kể cho anh chúng tôi từng ở tiền tuyến tại Bắc Phi trước khi tới đây đúng không. Đó là một món quà từ một trong những dân làng được chúng tôi giải cứu.”

“Món quà được đấy.”

“Được làm nữ hoàng cũng không tệ đến vậy, anh thấy đấy.”

Một cái máy xay cà phê bằng tay đặt giữa chiếc bàn thủy tinh. Một thiết bị nho nhỏ với hình dáng rất đặc thù –– tôi đã từng thấy một cái ở cửa hàng đồ cổ. Bên cạnh đó là một thứ trông có vẻ như là một cái phễu tráng men bọc bằng một lướp vải màu nâu. Tôi đoán cái đó dùng để đặt cà phê đã xay vào giữa và đổ nước vào.

Một bếp ga quân dụng và một cái quạt cao áp chiếm lấy giữa căn phòng. Hai cái tách được đặt gần đó, một cái có một vết mẻ be bé còn cái kia thì trông mới tinh. Tại mép bàn có một cái túi nilon có thể đóng lại được, bên trong chất đầy những hạt cà phê màu nâu tối.

Rita hình như chả có nhiều tư trang cá nhân lắm. Hành lý thì chỉ có mỗi một cái ba lô vải nilon bán trong suốt đặt dưới chân bàn –– nó trông giống như cái túi của mấy gã vận động viên quyền anh ấy. Không có những dụng cụ pha cà phê đi kèm, cái túi nằm sõng soài, gần như chả có gì. Những người lính được gửi tới tít tận góc khuất của quả đất thường được nhắc nhở không mang quá nhiều hành lý, nhưng kể cả xét trong tiêu chuẩn đó thì hành lý của Rita cũng quá nhẹ. Một trong những hành lý cô mang theo là máy xay cà phê bằng tay, và thứ đó chả giúp cô bớt kỳ quặc là mấy.

“Anh có thể chờ trên giường nếu muốn.”

“Tôi thích đứng xem hơn,” Tôi nói. “Cái này hay đấy.”

“Vậy thì để tôi xay nhé.”

Rita bắt đầu quay cái tay cầm của máy xay cà phê. Thứ âm thanh sột soạn choán đầy cả căn phòng và chiếc bàn thủy tinh rung lên bần bật. Vài lọn tóc quăn quăn trên đỉnh đầu của cô cũng đung đưa phất phơ.

“Khi trận chiến kết thúc, tôi sẽ mời cô thưởng thức món trà xanh tuyệt vời nhất mà cô từng được thưởng thức –– để hồi đáp cho món cà phê này.”

“Tôi nghĩ trà xanh bắt nguồn từ Trung Quốc chứ.”

“Có lẽ nó khởi nguồn từ đó, nhưng nơi đây mới là nơi khiến nó trở nên hoàn hảo. Phải mất hàng đống thời gian thì họ mới cho phép đem nó đi xuất khẩu đấy. Tôi tự hỏi chúng ta nên dùng loại gì đây.”

“Họ có phục vụ nó miễn phí tại nhà hàng à?”

“Đúng vậy.”

Sau chiến tranh...” Rita nói nghe có hơi đượm buồn.

“Này, trận chiến này rồi sẽ kết thúc mà. Chắc chắn luôn. Tôi và cô sẽ thấy được ngày đó.”

“Anh nói đúng. Tôi chắc chắn anh sẽ thấy được.” Rita lấy những hạt đã xay ra và đổ vào tấm vải lọc phủ lấy cái phễu. “Đầu tiên anh phải tráng sơ chúng đã.”

“Hử?”

“Mùi vị sẽ hoàn toàn thay đổi luôn. Một ông bạn già của tôi đã từng chỉ cho tôi. Tôi không hiểu tại sao nó lại có tác dụng, nhưng nó thực sự có tác dụng.”

Cô ấy thấp nước lên những hạt cà phê tươi nguyên đã được xay bằng nước âm ấm. Những bong bóng màu kem nổi lên nơi nước chạm vào cà phê. Một hương vị đắng chát, ngọn ngào và chua chua bùng nổ trong khoảng không quanh cái bàn.

“Mùi vẫn kì kì à?”

“Thơm quá.”

Bằng những chuyển động tròn đều, Rita cẩn thận đổ nước vào. Từng giọt một, thứ chất lỏng màu nâu sáng long lanh bắt đầu nhỏ tong tong xuống chiếc cốc kim loại đang chờ ở bên dưới.

Một làn hơi mỏng bắt đầu bốc lên từ cái cốc khi âm thanh đinh tai nhức óc xuyên qua những lớp tường dày và tấm kính cường lực tại phòng nghỉ trên không. Sàn nhà rung lên. Rita và tôi rơi xuống đất ngay sau một nhịp tim. Mắt chúng tôi chạm vào nhau.

Không có những tiếng kêu leng keng của chiếc đèn chùm làm bằng thủy tinh, chỉ có một thứ âm thanh chấn động đầy sắc bén, cứ như có ai đó vứt quyển danh bạ điện thoại dày cộp xuống sàn nhà. Những vết nứt hình mạng nhện lan ra trên ô cửa sổ, một mũi giáo màu đất nằm ngay giữa tấm lưới đó. Thủy tinh lỏng màu tím tràn ra khỏi vết nứt và đổ đầy xuống sàn.

Quá muộn, còi báo động bắt đầu vang vọng khắp căn cứ. Ba cột khói to bốc lên ở bên ngoài cửa sổ. Mặt nước ngoài bãi biển bắt đầu chuyển thành màu xanh tái mét.

“Một –– một đợt tấn công?” Giọng tôi run rẩy. Có lẽ cả cơ thể tôi cũng vậy. Trong 159 vòng lặp trước chưa từng có đợt tấn công bất ngờ nào. Cuộc chiến vốn phải bắt đầu sau khi chúng tôi hạ cánh tại Đảo Kotoiushi.

Loạt đạn thứ hai và thứ ba lao vào cửa sổ. Cả tấm kính lõm vào bên trong nhưng vẫn chưa vỡ tung ra. Những vết nứt lan ra khắp ô cửa sổ. Từng tia sáng chói chang chọc vào mắt tôi.

Rita đã đứng dậy và bình tĩnh để cái chảo rang lên trên bếp ga. Cô ấy tắt lửa rất chuyên nghiệp.

“Cái cửa kính này không tồi đâu. Đúng là không thể trông mặt mà bắt hình dong,” Rita lẩm bẩm.

“Chúng ta phải phản công –– không, tôi phải đi tìm trung sĩ –– chờ đã, Chiến giáp của chúng ta!”

“Đầu tiên anh cứ bình tĩnh lại đã.”

“Nhưng, chuyện gì đang xảy ra!” Tôi không định hét lên, nhưng tôi chẳng kìm lại được. Tất cả chỗ này làm gì có trong kịch bản. Tôi đã bị lặp thời gian nhiều lần tới mức từng sự kiện trong tiểu thuyết đều đã bị tôi học thuộc tới m��c ám ảnh. Cái sự kiện bị một mũi giáo nổ tung trước những ô cửa trong căn phòng tôi đang đứng thật là vô lý.

“Những con Mimic sử dụng vòng lặp để chiến thắng. Anh không phải là người duy nhất nhớ được những gì xảy ra tại các vòng lặp trước.”

“Vậy đây là do tôi đã khuấy đảo mọi chuyện trong vòng lặp trước?”

“Lũ Mimic hẳn đã quyết định đây là cách duy nhất giúp chúng thắng được. Thế thôi.”

“Nhưng... căn cứ,” Tôi nói. “Sao chúng lọt vào đây được?”

“Chúng đã từng đi xuyên qua Mississippi để tấn công Illinois. Chúng là những sinh vật biển. Không có gì đáng ngạc nhiên khi chúng tìm ra cách vượt qua vòng phòng vệ được tạo ra bởi một đám người trú ngụ trên đất liền.” Rita bình tĩnh đáp.

“Chắc vậy.”

“Để mấy gã thượng cấp lo chuyện đó đi. Với tôi và anh, chuyện này chỉ có nghĩa là chúng ta chiến đấu tại đây thay vì Kotoiushi thôi mà.”

Rita vươn tay ra. Tôi nắm lấy nó và cô ấy kéo tôi đứng dậy. Những ngón tay ấy chai sạn tại những chỗ giao tiếp với Chiến giáp. Lòng bàn tay vừa cầm chiếc chảo rán ấy ấm ơn của tôi nhiều. Tôi có thể cảm thấy nỗi lo sợ thắt chặt lấy lòng ngực trong tôi bắt đầu vơi bớt.

“Công việc của một người lính Chiến giáp là giết sạch mọi con Mimic trong tầm ngắm. Đúng không?”

“Ừ. Ừ, chính xác.”

“Chúng ta sẽ tới nhà chứa máy bay của quân Hoa Kỳ trước. Tôi sẽ lấy Chiến giáp của tôi. Chúng ta sẽ lấy vũ khí cho cả hai. Tôi sẽ bảo vệ anh trên đường tới nhà chứa máy bay Nhật. Rõ chưa?”

“Rõ rồi.”

“Rồi chúng ta sẽ đi săn con server và giết nó. Kết thúc vòng lặp. Sau đó, chỉ cần dọn dẹp những gì còn lại.” Tôi ngừng run rẩy. Rita xẹt qua một nụ cười đanh thép. “Chẳng có thời gian thưởng thức cà phê sáng rồi.”

“Kết thúc nhanh trước khi nó nguội mất nào,” Tôi nói, vươn tay lấy một tách.

“Đùa hay thật vậy?”

“Mất công nghĩ lắm đó.”

“Mặc dù vậy nghe cũng vui đấy. Cà phê đun lại sẽ không còn mùi vị như trước nữa. Và nếu anh để phơi trần nó bên ngoài, sau khoảng ba ngày nó sẽ bắt đầu đóng ván. Chuyện đó từng xảy ra một lần hồi tôi còn ở Châu Phi. Tức muốn nổ đom đóm mắt.”

“Uống có ngon không?”

“Vui nhỉ.”

“Nếu cô không uống, sao cô biết được nó không ngon?”

“Anh thích thì đi uống cà phê đóng ván. Đừng bắt tôi dọn dẹp sản phẩm thải ra của anh sau khi anh buồn nôn là được. Đi nào.”

Rita đi ra khỏi bàn, để lại sau lưng tách cà phê hoàn toàn tự nhiên được pha nguyên chất. Khi chúng tôi đi ra khỏi phòng, một cô nàng nhỏ nhắn đang tì vào cửa ngã nhào vô bên trong, làm rơi cả cái mũ lông chim và mấy phụ kiện ba lăng nhăng khác. Mái tóc đen được tết lại thành bím thò ra đằng sau cái mũ kỳ quái. Cô nàng người Mỹ chính gốc được người người yêu mến, Shasta Raylle.

“Chúng ta bị tấn công! Chúng ta bị tấn công!” cô ấy hét lên, gần như đứt hơi. Khuôn mặt cô nàng hằn sọc những vệt sơn đỏ và trắng. Tôi bắt đầu tự hỏi không biết trong mấy cái vòng lặp này chỉ có riêng tôi trở nên điên điên khùng khùng khi dành những giây cuối cùng của cuộc đời nằm trong hố bom bốc khói không nữa.

Rita bước lùi một bước để đánh giá chính xác một trong những bộ não vĩ đại nhất trong trường MIT. “Bộ lạc da đỏ nào tấn công vậy?”

“Không phải bộ lạc! Lũ Mimic!”

“Đây là cách cô ăn mặc trước mỗi trận chiến à?”

“Không tốt sao?” Shasta hỏi.

“Tôi không phải là người hay chỉ trích tôn giáo hay phong tục của người khác, nhưng tôi phải nói cô lỡ mất hai trăm năm để làm thầy phù thủy rồi.”

“Không, cô không hiểu!” Shasta nói. “Họ bắt tôi mặc thế này trong bữa tiệc tối qua! Chuyện này luôn xảy ra khi cô không ở bên.”

Có lẽ ai cũng có nỗi khổ của riêng mình, tôi nghĩ vậy.

“Shasta, sao cô lại ở đây?” Rita nói với vẻ khá kinh ngạc.

“Tôi tới đây để báo cho cô biết rìu chiến của cô không ở trong nhà chứa máy bay, nó ở trong công xưởng.”

“Cảm ơn vì đã báo tin nhé.”

“Cẩn thận ở ngoài kia đấy.”

“Cô đang làm gì ở đây?”

“Tôi không thể chiến đấu, nên tôi nghĩ tôi sẽ tìm nơi nào đó an toàn để trốn ––“

“Dùng phòng của tôi này,” Rita nhanh nhẩu nói. “Những mũi giáo không thể đâm xuyên qua tường hay cửa kính. Trông thế thôi chứ nó bền lắm đấy. Cô chỉ cần giúp tôi một chuyện là được.”

“Một... chuyện?”

“Đừng để ai vào đây cho tới khi tôi hoặc anh ta quay lại.” Rita chĩa ngón tay về phía tôi. Tôi nghĩ Shasta còn không nhận ra ở đây còn một người khác đang đứng bên cạnh Rita cho tới tận lúc này. Tôi gần như nghe được tiếng đôi mắt to tròn kia chớp chớp từ đâu đó đằng sau cặp kính dày cộp khi cô ấy nhìn chằm chằm vào tôi. Tôi vẫn chưa gặp Shasta Raylle trong vòng lặp này.

“Và anh là...?”

“Keiji Kiriya. Rất hân hạnh.”

Rita bước tới cánh cửa. “Cô không được để cho ai vào, dù cho họ là ai hay họ nói gì. Kể cả tổng thống có tới thì cứ bảo ông ấy cút đi.”

“Yes sir!”

“Trông cậy cả vào cô đấy. Ồ, và thêm một chuyện nữa ––“

“Hử?”

“Cảm ơn vì lá bùa may mắn. Tôi sẽ cần tới nó đấy.”

Rita và tôi vội vã chạy ra nhà chứa máy bay.

4

Ngay lúc Rita và tôi đang thực hiện chuyến hành trình từ Nhà nghỉ Trên không, Lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ đã thiết lập một hành lang phòng vệ lấy nhà chứa máy bay làm trung tâm.

Hai phút cho Rita mặc Chiến giáp. Một phút bốn mươi lăm giây để chạy tới công xưởng của Shasta. Sáu phút mười lăm giây để hạ hai con Mimic chúng tôi bắt gặp trên đường tới nhà chứa máy bay Nippon. Vậy tổng cộng là mười hai phút ba mươi giây đã qua kể từ khi chúng tôi rời khỏi Nhà nghỉ Trên không.

Căn cứ đã trở nên hỗn loạn. Những ngọn lửa như liếm lên bầu trời, phương tiện giao thông thì ngổn ngang trên đường. Khói mù đổ đầy trên những con đường chia cách doanh trại, khiến tầm nhìn bị hạn chế. Những viên đạn pháo khạc ra từ những họng súng ngắn, hoàn toàn vô dụng trước lũ Mimic, nổ tung trong không trung, chìm nghỉm trong tiếng gầm của khẩu súng phóng tên lửa. Những mũi giáo đâm vào những máy bay chiến đấu khi chúng lao lên bầu trời, đánh gãy những cánh quạt và khiến chúng lao đầu xuống đất.

Cứ một người chạy lên phía bắc để né tránh cảnh tàn sát thì lại có một người chạy xuống phía nam. Không tài nào biết được nơi nào là an toàn. Đợt tấn công bất ngờ đã đánh một đòn phủ đầu lên chuỗi mệnh lệnh chỉ huy. Tại cấp trên chẳng có một ai hiểu được chuyện gì đang xảy ra rõ hơn những người ở cấp dưới.

Chẳng thấy nhiều xác Mimic lắm, và mười ngàn Chiến giáp trong căn cứ cũng chả có tăm hơi nào. Xác người rải rác la liệt khắp nơi. Chỉ cần liếc phần thân trên nát bấy là biết ngay họ đã lên bảng đếm số.

Một người lính đã chết nằm úp mặt xuống đất cách nhà chứa máy bay của tôi khoảng ba mươi mét. Phần thân trên đã bị xé nát ra, nhưng anh ta vẫn đang dùng hai tay nắm chặt băng đạn. Dưới làn bụi mỏng đó có một cô nàng ngực trần tóc vàng hoe tươi cười ngước nhìn từ trong trang giấy. Tôi biết rõ cái bộ ngực kỳ vĩ đó từ đâu ra. Cái gã nằm ở giường bên cạnh tôi đã nhìn chằm chằm vào chúng mỗi khi tôi và Yonabaru nói chuyện trong doanh trại. Đó là Nijou.

“Khổ thân, thằng khốn chết trong khi xem porn,” Tôi nói.

“Keiji, anh biết chúng ta phải làm gì mà.”

“Ừ, tôi biết. Sẽ không thể quay ngược lại vào lần này. Dù là ai chết đi chăng nữa.”

“Không còn nhiều thời gian đâu. Đi thôi.”

“Tôi đã sẵn sàng.” Trong một giây, tôi đã nghĩ vậy. “Chết tiệt! Đây đâu phải là trận chiến, một cuộc tàn sát thì đúng hơn.”

Cửa nhà chứa mở ra. Trên đó có dấu vết có người đã dùng xà beng để phá khóa. Rita kéo một trong những chiếc rìu chiến xuống mặt đất và mở chốt khẩu súng trường 20mm treo sau lưng.

“Anh có năm phút.”

“Tôi chỉ cần ba thôi.”

Tôi chạy vào trong nhà chứa. Đó là một căn nhà dài và hẹp với những chiếc Chiến giáp xếp thành hai hàng ngay ngắn. Mỗi căn nhà này chứa đủ Chiến giáp cho một tiểu đội, hai mươi lăm cái tựa vào tường. Không khí trong phòng nặng nề và ẩm thấp. Những ánh đèn treo trên tường cứ chớp nháy tắt mở. Hầu hết các Chiến giáp đều đang treo trên móc, lạnh lẽo không chút sự sống.

Cái mùi nồng nặc của máu gần như khiến tôi bủn rủn tay chân. Một vũng máu to tướng đọng lại giữa phòng, bám dính lên sàn bê tông. Đủ để đổ đầy một bồn rửa mặt. Hai vệt dài nhìn như được vẽ bằng cọ vẽ chảy dài từ vũng máu tới cửa bên kia, nằm tại đằng xa nơi cuối nhà chứa.

Ai đó đã bị thương nghiêm trọng tại đây, và dù là ai kéo họ đi cũng không đủ sức người hay trang thiết bị để đưa đi một cách nghiêm chỉnh. Nếu tất cả chỗ máu này đều là của một người, họ chắc chắn đã chết. Một đống Chiến giáp đang nằm ngổn ngang dưới mặt đất, y hệt như những vỏ da sau khi lột xác của một loài quái thú hình người nào đó.

Chiến giáp trông giống một trong bộ trang phục đáng yêu mà nhân viên hay mặc trong mấy công viên giải trí để họ trông giống cái con chuột lúc nào cũng cười như điên kia. Khi bên trong không có ai, chúng chỉ biết treo trên tường với cái lỗ trống hoác sau lưng, chờ đợi ai đó leo vào.

Từ khi Chiến giáp đọc được mọi tín hiệu xung điện cơ bắp, các bộ giáp đặc hiệu được tạo ra. Nếu bạn mặc Chiến giáp của người khác, không ai biết được chuyện gì sẽ xảy ra. Có thể nó sẽ không di chuyển tí nào, hoặc có thể nó sẽ bẻ gãy xương bạn như bẻ gãy một cành cây, nhưng dù kết quả là gì thì nó cũng không tốt đẹp cho lắm. Không ai được tốt nghiệp khóa học căn bản mà không biết tới chuyện đó. Những chiếc chiến giáp trên nền đất là bằng chứng thiết thực nhất rằng ai đó đã bỏ qua luật cơ bản đó trong trạng thái không còn gì để mất. Tôi lắc đầu.

Chiến giáp của tôi vẫn nằm nguyên trên giá. Tôi leo lên. Trong ba mươi bảy thao tác kiểm tra, tôi bỏ qua hai mươi sáu.

Một bóng đen di chuyển tới cuối nhà chứa, nơi được máu dẫn đường –– ở phía mà Rita không để ý. Hệ thần kinh của tôi ngay lập tức chuyển sang chế độ cảnh giác. Tôi chỉ cách cánh cửa hai mươi mét, có khi còn ít hơn. Một con Mimic có thể băng qua khoảng cách đó trong chưa đầy một giây. Một mũi giáo còn nhanh hơn.

Tôi có thể giết một con Mimic bằng tay không không? Không. Tôi có thể giải quyết nó không? Có. Mimic di chuyển còn nhanh hơn Chiến giáp, nhưng các bước di chuyển của chúng lại quá dễ đọc. Tôi có thể né nó dễ dàng và áp sát tường hòng kiếm thêm thời gian để tới chỗ Rita. Trong vô thức, tôi giả lập tình hình trận chiến trong đầu, quay chân phải theo chiều kim đồng hồ và chân trái thì ngược chiều kim đồng hồ. Rồi cái bóng rút cục cũng lộ diện: Đó là Yonabaru.

Hắn ta ướt đẫm máu từ trên hông xuống. Máu khô thấm đẫm trên trán. Hắn ta trông như một gã họa sĩ bẩn thỉu. Một nụ cười thay thế cho vẻ căng thẳng trên mặt hắn và hắn bắt đầu chạy về phía tôi.

“Keiji, chết tiệt, cả sáng nay anh vẫn chưa thấy mày. Lo phát chết.”

“Em cũng vậy. May mà anh vẫn ổn.” Tôi hủy phần mềm né tránh mà cơ thể tôi đang định thao tác và bước lại chỗ áo quần tôi để trên sàn.

“Chú mày nghĩ chú mày đang làm gì hả?” hắn ta hỏi.

“Còn gì nữa? Em đi giết thêm vài con Mimic.”

“Mày điên hả? Đây đâu phải lúc làm việc đó.”

“Thế anh có việc gì tốt hơn để làm à?”

“Anh không biết, có thể là rút lui một cách yên bình và trật tự, hay tìm lấy một nơi Mimic không tới được. Hoặc chỉ đơn giản là chạy cmn luôn!”

“Người Mỹ đang chuẩn bị ra trận đấy. Chúng ta cần tập hợp với họ.”

“Họ đâu phải là chúng ta. Quên họ đi. Nếu chúng ta không rời đi ngay lúc này thì sẽ không còn cơ hội nào khác đâu.”

“Nếu chúng ta chạy, ai sẽ ở lại đánh nhau?”

“Chú mày bị mớ à? Tỉnh lại đi!”

“Đây là lý do chúng ta được huấn luyện.”

“Căn cứ đã mất, thằng em à, nó đã mất rồi.”

“Vẫn chưa nếu Rita và em vẫn còn ở đây.”

Yonabaru nắm lấy cánh tay Chiến giáp của tôi, thực ra là đang cố kéo tôi như một đứa trẻ dùng hết sức lực níu lấy tay cha mà đòi dẫn tới tiệm đồ chơi. “Mày điên rồi, thằng em. Dù là chú mày hay là anh thì cũng chẳng thể gây thêm sự khác biệt nào đâu,” hắn ta nói và tiếp tục kéo. “Có lẽ đây là giác ngộ trách nhiệm của chú mày, danh dự, kiểu kiểu thế. Nhưng tin anh đi, chẳng có ai trong chúng ta có nghĩa vụ và trách nhiệm đi tự sát chẳng vì cái gì. Anh và chú mày chỉ là những người lính bình thường. Chúng ta không giống Ferrell hay những gã trong Lực lượng Đặc nhiệm. Cuộc chiến không cần tới chúng ta.”

“Em biết.” Tôi gỡ tay Yonabaru bằng một cú lắc khẽ. “Nhưng em cần cuộc chiến.”

“Ý chú thực sự là vậy, phải không?”

“Em không hy vọng anh hiểu được.”

Rita đang đợi tôi. Tôi đã mất bốn phút rồi.

“Đừng nói anh chưa cảnh báo chú mày đó.”

Tôi mặc kệ câu nói hờn dỗi của Yonabaru và chạy ra khỏi nhà chứa. Rita và tôi không phải là những người lính duy nhất đang mặc Chiến giáp. Màn hình của tôi sáng trưng những điểm sáng thông báo đồng đội. Co cụm thành những nhóm hai hay ba người, họ đang núp trong căn cứ hay đằng sau những chiếc xe đã lật nhào, nơi họ có thể nhảy ra nhảy vào và bắn vài loạt đạn ngắn.

Đợt tấn công bất ngờ của lũ Mimic không có một khe hở. Những người lính hoàn toàn bị ngắt kết nối tới các mệnh lệnh chỉ đạo. Kể cả những người mặc Chiến giáp kia cũng không chiến đấu như một tiểu đội kỷ luật cao –– trông giống thường dân được vũ trang hơn. Để lực lượng bộ binh vũ trang thật sự đối trọng được với Mimic, họ phải lao ra khỏi nơi ẩn nấp và ném mọi thứ họ có vào mặt kẻ thù chỉ để khiến chúng chậm lại. Một đấu một, kể cả hai đấu một thì họ cũng chẳng hề có chút cơ hội chiến thắng nào.

Những biểu tượng thân thiện chớp nháy trên màn hình của tôi, và rồi vụt tắt. Số lượng đồng chí vẫn đang giữ ở mức ổn định hầu hết là nhờ công của lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ. Số lượng biểu tượng Mimic vẫn đang dần dần tăng lên. Một nửa tín hiệu liên lạc là các xung điện từ chói tai, còn nửa còn lại là hỗn hợp của những âm thanh gào thét hoảng loạn và “Fuck! Fuck! Fuck!” Tôi không hề nghe thấy ai ra mệnh lệnh. Dự đoán của Yonabaru có vẻ sắp thành hiện thực rồi.

Tôi mở đường dây liên lạc tới Rita. “Giờ thì sao?”

“Thi hành sở trường của chúng ta thôi. Giết thêm vài con Mimic.”

“Cụ thể hơn chút được không?”

“Theo tôi. Tôi sẽ cho anh thấy.”

Chúng tôi lao vào trận chiến. Chiến giáp đỏ rực của Rita là ngọn cờ để đội quân tan rã như ong vỡ tổ bắt đầu tập hợp lại phía sau. Chúng tôi chạy qua từng người lính một, tập hợp họ lại. Cho tới khi con Mimic cuối cùng chết, chúng tôi vẫn sẽ tiếp tục như vậy.

Chiến thần Valkyrie bay từ đầu bên này Chiến tuyến Flower sang đầu bên kia một cách tùy ý, mang theo thông điệp không lời của hy vọng cho tất cả những người thấy cô. Kể cả quân Nhật Bản, những người chưa từng thấy tận mắt Chiến giáp của cô ấy, vẫn cứ chiến đấu bên cạnh cô, hồi phục lại tinh thần ngay sau khi nhìn thấy lớp kim loại đỏ rực sáng lấp lánh đó. Nơi gót chân cô đi qua là nơi trái tim của trận chiến theo sau.

Trong chiến giáp của mình, Rita là vô địch. Người cộng tác cùng cô ấy, nói thật anh ta vẫn có vài nhược điểm, nhưng không có con Mimic nào kháng cự được trước tôi đâu. Lũ kẻ thù của nhân loại đã gặp phải đao phủ của chúng rồi. Đây là lúc cho lũ Mimic thấy địa ngục nơi chúng đã sảy chân rơi vào sâu đến mức nào.

Mang theo vũ khí và áo giáp từ trong cái chết, chúng tôi khiêu vũ điệu jitterbug ngang dọc chiến trường. Nếu một tòa nhà chắn trên đường chúng tôi đi, chúng tôi tự vạch ra con đường mới bằng rìu chiến của mình. Chúng tôi kích nổ một trạm xăng để tiêu diệt hoàn toàn một đám Mimic. Chúng tôi vặn đổ tháp ăng ten và dùng nó làm vật cản. Full Metal Bitch và hộ vệ của cô là những hiện thân thép của tử thần.

Chúng tôi chạy qua chỗ một gã đang núp sau một chiếc xe quân dụng đang bốc cháy. Một con Mimic đang săn lùng hắn, và không cần nói tôi cũng biết đây là con dành cho tôi. Tôi đâm, và con Mimic ngã xuống. Tôi nhanh chóng lao tới giữa cái xác Mimic và người đàn ông để bảo vệ ông khỏi lớp cát dẫn điện rò rỉ ra từ người nó. Không có Chiến giáp để lọc và loại bỏ những con nanobot, đống cát đó là một thứ độc dược.

Rita bảo vệ quanh người đàn ông đang bị thương. Khói bay ra từ trong xe, khiến tầm nhìn giảm tới mức hai người ở cạnh nhau cũng không nhìn ra nhau. Cách đó mười mét, khoảng hướng sáu giờ, một ngọn tháp bằng thép đã ngã xuống và nằm ngổn ngang bên đó. Ở phía xa hơn, Ra đa Doppler đang chớp nháy từng đám những điểm sáng trắng. Nếu chúng tôi ở lại đây chúng tôi sẽ bị bọn Mimic tràn qua.

Cái chân của người đàn ông bị kẹt bên dưới cái xe bị lất. Hắn ta là một gã cơ bắp, và một cái máy quay phim to được đeo trên cái cổ còn to hơn cả cổ tôi. Đó là Murdoch, một nhà báo đã đứng bên cạnh Rita chụp ảnh trong buổi thể hình.

Rita cúi xuống và kiểm tra chân anh ta. “Tôi tưởng anh cố đứng ngoài chiến trường cơ mà.”

“Đó là một pose ảnh đẹp, Thượng Sĩ. Chắc chắn nó sẽ giành được giải Pulitzer, nếu tôi có thể chụp được nó. Nhưng mà không tính vụ nổ nhé.” Nhọ nồi cùng bụi bẩm bám đầy khóe miệng hắn ta.

“Tôi không biết cái này gọi là may mắn hay xui xẻo nữa.”

“Được gặp nữ thần trong Địa ngục thế này nghĩa là tôi vẫn còn may mắn chán,” hắn ta nói.

“Mảnh vỡ này đâm vào chân anh tương đối sâu đấy. Sẽ mất kha khá thời gian để đưa anh ra đây.”

“Tôi có những lựa chọn gì?”

“Anh có thể ở đây chụp ảnh tới khi Mimic nghiền nát anh ra, hoặc là tôi có thể chặt chân anh và đưa anh tới trạm xá. Chọn gì thì chọn đi.”

“Rita, chờ đã!”

“Anh có một phút suy nghĩ. Mimic sắp tới rồi.” Cô ấy dơ cao rìu lên, trông chả có vẻ gì là sẽ cho anh ta đủ sáu mươi giây.

Murdoch hít một hơi sâu. “Tôi có thể nhờ cô một chuyện không?”

“Chuyện gì?”

“Nếu tôi sống sót –– cô sẽ để tôi chụp một tấm ảnh nghiêm chỉnh của cô chứ? Không thè lưỡi ra, không ngón giữa?”

* * *

Quân Nhật và quân Mỹ gặp nhau sau hơn hai giờ kể từ khi đợt tấn công nổ ra. Trong khoảng thời gian đủ dài để mặt trời leo lên từ chân trời phương Đông lên và tỏa sáng chói lòa thẳng từ trên đỉnh đầu, những người lính trên mặt đất đã co cụm lại thành một thứ mà rốt cục bạn cũng có thể gọi là phòng tuyến. Đây là một trận chiến nham nhở, nhưng vẫn chưa đến mức tan tác. Vẫn còn rất nhiều người còn sống, vẫn cử động, vẫn chiến đấu.

Rita và tôi băng qua tàn tích của căn cứ.

5

Phòng tuyến di dời vào giữa Căn cứ tuyến Flower, tạo hình một hình bán nguyệt phình ra hướng về phía bờ biển. Lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ trụ lại tại trung tâm của vòng cung rách nát, nơi những đợt tấn công của kẻ thù bỏng rát nhất. Những người lính xếp chồng các bao cát, nấp sau mớ gạch vụn, và xối như mưa những đạn, tên lửa và câu chửi tục xuống đầu kẻ thù bất cứ khi nào có thể.

Nếu bạn vẽ một đường tưởng tượng từ chỗ những người lính Mỹ tới Đảo Kotoiushi, Sân huấn luyện #3 sẽ nằm ở chính giữa. Đó là nơi lũ Mimic tràn vào bờ. Bình thường thì lũ Mimic hành xử như tất cả trí khôn của chúng nó bị bỏ quên hết ở nhà. Những đợt tấn công bất ngờ không có trong từ điển quân sự của chúng. Và bạn có thể chắc chắn rằng điểm yếu của chúng –– con server hút đạn nhất –– sẽ bị bảo hộ nghiêm ngặt nhất, bị vây quanh bởi tầng tầng lớp lớp Mimic. Tên lửa đạn đạo chui sâu xuống đất và cắt xẻ nền đá, bom chùm nổ thành hàng ngàn quả bom bi, bom nhiên liệu xóa sổ mọi thứ gần chúng. Tất cả những công cụ phá hủy tối tân nhất của loài người đều vô dụng trước chúng. Hạ gục lũ Mimic cứ như đang gỡ bom hẹn giờ vậy; bạn phải gỡ từng miếng một theo đúng thứ tự chứ nếu không bạn sẽ bị thổi bay.

Chiến giáp của Rita và tôi trở thành một cặp đôi hoàn hảo, máu và cát. Mỗi chiếc rìu chiến hộ vệ cho lưng của người kia. Chúng tôi né những mũi giáo bay tới, xẻ dọc Mimic, đục lỗ trên bê tông bằng những mũi khoan phản lực Volfram cacbua. Tất cả hòng tìm kiếm con Mimic có thể kết thúc chuyện này.

Tôi đã thuộc nằm lòng quy trình: phá hủy cái ăng tên và những con backup để ngăn Mimic gửi thông tin về quá khứ. Tôi cứ tưởng tôi đã thành công trong vòng lặp #159, và có vẻ như Rita không nói dối. Thế nhưng chẳng hiểu tại sao mọi thứ lại bị reset lần nữa. Gần gũi hơn với Rita thêm một chút trong vòng lặp #160 này cũng vui đấy, nhưng đổi lại thì Tuyến Flower đã bị tàn phá. Khi tấm rèm tro bụi hạ xuống sẽ có hàng đống thương vong và thiệt mạng xuất hiện.

Tôi khá chắc là Rita có cách. Cô ấy đã trải qua nhiều vòng lặp hơn tôi, nên có lẽ cô ấy đã thấy cái mà tôi chưa thấy. Tôi nghĩ tôi đã trở thành một cựu binh, nhưng bên cạnh cô ấy tôi vẫn chỉ là một tay lính mới.

Chúng tôi đang đứng trên sân huấn luyện #3, dây thép gai chăng một phía, ba mặt còn lại vây bởi hàng rào lưới đã bị dày xéo. Mimic bao quanh chỗ này, đứng sít lại vai kề vai –– cứ như chúng thật sự có vai vậy. Không thể chống đỡ trọng lượng kinh khủng của Mimic, sàn bê tông nứt ra và vỡ vụn. Mặt trời bắt đầu lặn dần, vẽ nên những cái bóng hỗn độn dọc khắp nền đất nhấp nhô. Ngọn gió vẫn mạnh như ngày hôm qua, nhưng bộ lọc khí của Chiến giáp đã khử sạch mọi dấu vết từ biển khơi.

Rút cục thì nó đây, con Mimic server. Rita và tôi nhìn ra nó cùng một lúc. Tôi không biết tại sao chúng tôi lại nhận ra được nó, nhưng chúng tôi biết.

“Tôi không liên lạc được với đội hỗ trợ. Chúng ta sẽ không có sự trợ giúp từ không quân đâu.”

“Chuyện bình thường ấy mà.”

“Anh vẫn nhớ những gì phải làm chứ?”

Tôi gật đầu bên trong Chiến giáp.

“Vậy thì làm thôi.”

Cái sân chất đầy mười ngàn mét vuông Mimic đang chờ rìu chiến của chúng tôi tiễn chúng về miền cực lạc. Chúng tôi tiến về phía chúng.

Bốn cái chân dày cộm và một cái đuôi. Dù đã thấy Mimic không biết bao nhiêu là lần nhưng tôi vẫn không thể liên tưởng nó thành cái gì khác ngoài xác con ếch chết trôi. Nhìn bề ngoài thì chẳng cách nào phân biệt được con server và những con lính lác, nhưng Rita và tôi nhận biết được sự khác biệt.

Chúng ăn đất và nhả ra độc dược, để lại những vùng đất chết không có sự sống. Loài sinh vật trí tuệ ngoài hành tinh tạo ra chúng đã nắm vững công nghệ dịch chuyển trong không gian và biết cả cách gửi thông tin vượt thời gian. Giờ chúng đang chiếm lấy thế giới của chúng tôi và biến nó thành một bản sao của riêng chúng, mỗi cành cây, ngọn cỏ, đóa hoa, côn trùng, động vật và con người đều sẽ bị tuyệt diệt.

Lần này chúng tôi phải phá hủy con server. Không cho phép một sai lầm nào. Nếu chúng tôi không làm vậy, trận chiến này sẽ không bao giờ kết thúc. Tôi dồn hết quán tính vào chiếc rìu –– một nhát chém ngọt xớt trên ăng ten. “Được rồi!”

Đợt tấn công tới từ đằng sau.

Cơ thể tôi phản ứng trước khi tôi kịp suy nghĩ. Trên chiến trường, tôi khiến ý thức của mình cách ly khỏi công việc điều khiển cơ thể. Những tính toán lạnh lùng và công bằng của hệ điều hành trong tiềm thức chuẩn xác hơn những gì tôi tự làm rất nhiều.

Sàn bê tông dưới chân tôi nứt làm hai, thổi bay cát bụi lên không trung cứ như mặt đất bị nổ tung vậy. Chân phải tôi xoay sang để giữ thăng bằng. Tôi vẫn không nhìn thấy được thứ đang tấn công tôi. Không còn đủ thời gian để vung chiếc rìu chiến khổng lồ nữa.

Chân và tay tôi cử động để giữ nhịp độ khi trọng tâm tôi di động. Một cơn ớn lạnh chạy dọc cột sống, căng thẳng bất chợt giúp tôi có phản ứng né tránh cần thiết. Nếu xương sống của tôi được buộc chặt vào tấm giáp sau lưng thì giờ nó đã cọ xát đến nóng cháy rồi.

Tôi đẩy mạnh bằng cán rìu. Cú thụi đó chứa đựng sức mạnh tương đương với một mũi khoan phản lực. Trừ phi là vỏ giáp xe tăng, chẳng có nhiều thứ có thể kháng cự lại trước một đòn trực diện nặng 370 kí lô.

Đòn đánh chệch qua một bên. Fuck!

Một cái bóng di chuyển vào đáy mắt tôi. Không còn thời gian né tránh nữa. Tôi nín thở trước khi thọc vào bằng cây rìu. Đòn đánh đang tới. Đây rồi. Trong khoảnh khắc cơ thể tôi vút lên khỏi mặt đất, rồi tôi xoay tròn, thị giác chao đảo giữa trời và đất, rồi lại đất và trời. Tôi dừng xoay và chỉnh lại thế cân bằng chỉ bằng một thao tác trôi chảy. Chiếc rìu chiến đã sẵn sàng.

Và rồi, với một chân vẫn ở trên không, đứng tại đó, sừng sững một chiếc Chiến giáp đỏ rực bằng thép súng. Rita!

Có lẽ cô ấy đã đẩy tôi ra khỏi một đòn tấn công tôi không thấy được, hay có thể là do tôi vướng vào đòn tấn công của cô ấy. Nhưng cô ấy chắc chắn là người đã khiến tôi lật nghiêng trên mặt đất.

What the hell...?

Chiến giáp đỏ tươi nhún xuống lấy đà. Lưỡi rìu lóe sáng như chiếc lưỡi dao cạo. Tôi đã hiến dâng thể xác mình cho trận chiến. Một trăm năm mươi chín vòng lặp đã giúp nó có thể di chuyển dễ dàng, và nó đã làm được. Đòn đầu tiên lao tới bên hông, sượt qua tôi chỉ trong đường tơ kẽ tóc. Tôi gạt đi đòn thứ hai, một cú xoay chết tiệt, bằng một nửa chiếc rìu chiến. Trước khi đòn thứ ba tới, tôi nhảy lùi lại và giữ khoảng cách tương đối giữa chúng tôi.

Tôi lại hít thở và tính huống thật sự bắt đầu.

“Cô đang làm cái quái gì thế?”

Rita từ từ bước về phía tôi, rìu chiến bị kéo lê đi, gần như quét xuống mặt đất. Cô ấy dừng lại, giọng cô ấy lanh lảnh vang lên trên đường dây liên lạc. Cái giọng cao vút, thanh nhã, chả phù hợp chút nào trên chiến trường.

“Thế anh nghĩ tôi đang làm gì?”

“Tôi thấy cô đang cố giết tôi!”

“Con người nhận được những thông tin từ Mimic qua những giấc mơ. Não bộ chúng ta là những cái ăng ten thu nhận những tín hiệu đó. Nhưng đó không chỉ là một chiều. Não bộ chúng ta cũng biến đổi –– chúng ta trở thành những cái ăng ten. Mặc dù tôi không còn bị lặp nữa, nhưng tôi vẫn còn kết nối với nó; tôi vẫn cảm giác được con Mimic server vì tôi vẫn còn là một chiếc ăng ten. Cơn đau đầu là tác dục phụ. Anh cũng có nó, phải không?”

“Cô đang nói cái gì thế?”

“Chính vì vậy vòng lặp lặp lại trong lần trước, kể cả khi anh đã hủy diệt hết mọi con backup. Anh không tiêu diệt chiếc ăng ten –– là tôi.”

“Rita, tôi không hiểu.”

“Chiều ngược lại cũng đúng. Nếu anh trở thành chiếc ăng ten, lũ Mimic vẫn sẽ quay ngược vòng lặp được. Tôi là ăng ten. Anh đã bị kẹt trong vòng lặp. Anh giết tôi, vòng lặp sẽ bị dừng. Tôi giết anh, mọi chuyện sẽ thành hiện thực. Mãi mãi. Chỉ có một trong hai chúng ta được thoát ra.”

Nghe chẳng hợp lý chút nào cả. Tôi là một tay lính mới bị kẹt trong vòng lặp mà tôi chẳng hiểu gì. Tôi cầu nguyện để có thể trở nên mạnh mẽ như chiến thần Valkyrie càn quét chiến trường mà tôi từng được thấy. Tôi biến bản thân thành xác chết không biết bao nhiêu là lần, cố nối gót những bước chân của cô ấy, và sau 160 lần nỗ lực, rút cục tôi cũng tìm thấy cơ hội đứng bên cô ấy. Chúng tôi chiến đấu cùng nhau, cười đùa cùng nhau, ăn cơm và tán dóc cùng nhau. Tôi tự đẩy mình xuống Địa ngục để đến gần cô ấy, và giờ thế giới lại định chia cắt chúng tôi. Tôi không biết còn gì khốn nạn hơn thế này nữa. Những vòng lặp biến tôi thành chiến binh giờ lại đang chuẩn bị giết chết tôi.

“Nếu nhân loại có thể chiến thắng, chúng ta cần người có thể phá vỡ vòng lặp.” Giọng của Rita lạnh lùng và cao vút.

“Chờ đã, phải có cách––“

“Giờ chúng ta sẽ tìm ra người đó là Rita Vrataski hay Keiji Kiriya.”

Rita lấy đà.

Tôi ném khẩu súng trường đi, thời gian để ngắm và kéo cò khi đối mặt với Full Metal Bitch là không có. Tôi nắm chặt cán rìu bằng hai tay.

Trận chiến giữa chúng tôi kéo dài khắp căn cứ. Chúng tôi di chuyển từ sân huấn luyện #3 tới sân chúng tôi tập thể hình, giẫm nát những gì còn sót lại từ căn lều mà gã đại tướng từng dùng để né tránh ánh mặt trời gay gắt. Chúng tôi đi qua đống hoang tàn cháy âm ỉ còn sót lại của doanh trại Đại đội #17 và hai chiếc rìu đan vào nhau trước cổng nhà chứa máy bay. Hai lưỡi rìu cứ cái này lại sượt qua cái kia. Tôi cúi xuống để tránh đòn chính diện và tiếp tục chạy.

Những người lính khác dừng lại và nhìn chằm chằm vào chúng tôi khi chúng tôi đi qua. Mũ bảo hộ của họ dấu hết những biểu cảm trên khuôn mặt, nhưng cú sốc thì không thể che dấu. Và tại sao không? Đến tôi còn chả tin được chuyện này đang xảy ra. Tâm trí tôi liên tục phủ định, nhưng cơ thể tôi vẫn cứ tiếp tục vận hành trong vô thức, cứ như nó đã trở thành một cỗ máy nạp đầy năng lượng. Với những bước di chuyển đã được mài dũa tới hoàn hảo, tôi tung đòn chém tới.

Khi chúng tôi tới chiến tuyến của quân Hoa Kỳ, một ánh đèn xanh chớp nháy trên màn hình hiển thị của tôi ­­–– tín hiệu liên lạc tới Rita. Đường dây kết nối giữa Chiến giáp của chúng tôi khiến tín hiệu cũng được truyền tải tới tôi.

“Thủ trưởng Breeder gọi Calamity Dog.” Giọng đàn ông. Rita khựng lại một chút. Tôi chớp lấy cơ hội để kéo dãn khoảng cách giữa chúng tôi. Giọng nói kia tiếp tục, “Ngăn chặn kẻ thù thành công. Cô trông có vẻ hơi bận, cần giúp chứ?”

“Từ chối.”

“Có lệnh gì không?”

“Đừng để quân Nhật dính vào chuyện này. Tôi sẽ không chịu trách nhiệm cho những gì xảy ra khi họ cản đường tôi.”

“Rõ. Đi săn vui vẻ. Thủ trưởng Breeder ngắt kết nối.”

Đường dây liên lạc đóng lại, và tôi hét vào mặt Rita. “Đó là tất cả những gì cô nói đấy hả? Hello? What the fuck!” Không một lời đáp lại. Chiếc chiến giáp đỏ rực lại tiếp cận tôi. Không có thời gian tán dóc. Tôi còn phải chiến đấu bảo vệ mạng sống của chính mình.

Tôi không biết liệu Rita thực sự định giết tôi hay chỉ là thử tôi. Tôi là một cỗ máy chiến đấu chính xác, loại bỏ hoàn toàn các thông tin dư thừa. Rita và những thứ phức tạp hơn những thông tin như chạy/ đỡ/ né đều phải chờ cái đã. Dù mục đích thực sự của cô ấy là gì, những đòn tấn công của cô ấy thực sự đều là chí mạng.

Cửa chính của căn cứ ở bên tay phải của tôi. Chúng tôi đang ở trên con đường mà từ trước đến nay tôi luôn chọn để lẻn vào căn cứ ở bên quân Hoa Kỳ để chôm một cây rìu của Rita. Chiến tuyến mà Lực lượng Đặc nhiệm Hoa Kỳ đóng quân phòng hộ nằm ngay giữa hai chòi gác kiên cố.

Rita vung chiếc rìu chiến mà không thèm bận tâm ai hay cái gì có thể bị nó chém trúng. Tôi không thấy có lý do gì để đem người khác dính vào chuyện này, nên tôi bắt đầu lùi xa chiến tuyến. Căn tin #2 cách đó khoảng một trăm mét. Những mũi giáo đã khoan lỗ chỗ lên công trình, nhưng kỳ lạ thay, nó vẫn còn đứng vững. Đã cách chiến tuyến một khoảng kha khá –– nó sẽ hoạt động. Sau một nhịp tim, tôi đã chạy được cả trăm mét và đang hướng tới cánh cửa ở đằng xa trong tòa nhà.

Bên trong ánh sáng mờ ảo chạng vạng, chỉ đủ sáng để nhìn lờ mờ. Những chiếc bàn xếp ở hai bên, chất đống thành một rào cản tạm thời ngay trước lối vào đối diện với cái cổng tôi đi vào. Thức ăn và những chai nước tương đã dùng phân nửa nằm lăn lóc trên sàn nhà. Không hề có dấu hiệu của con người –– dù còn sống hay đã chết –– trong cả căn phòng.

Đây là nơi tôi đã ăn không biết bao nhiêu bữa trưa và nhìn Rita ăn. Nơi tôi đánh nhau với gã bồ tượng từ Đại đội #4 và chơi trò thi ăn với Rita bằng cả xô đầy mơ muối. Còn nơi nào tuyệt vời hơn để Rita và tôi định đoạt số phận của cả hai trong cuộc quyết đấu đây?

Những tia nắng màu da cam luồn qua những cái lỗ trên tường. Khi tôi nhìn chiếc đồng hồ bấm giờ bên cạnh màn hình hiển thị, tôi khó mà tin được tám tiếng đã trôi qua kể từ khi trận chiến bắt đầu. Nơi đây giờ đã đầy rẫy bụi. Tất nhiên bây giờ tôi cảm thấy Chiến giáp của tôi nặng như chì. Tôi không đủ cơ bắp để duy trì chuyện này. Pin năng lượng đã bị hút cạn và hệ thống bắt đầu tắt nguồn. Tôi chưa từng chiến đấu trong một trận chiến kéo dài đến mức này.

Chiếc chiến giáp đỏ rực của Rita rón rén bước vào trong căn tin. Tôi chặn một cú chém ngang bằng rìu; bộ khung trong Chiến giáp kêu kẽo kẹt. Nếu tôi dừng nó lại, moment xoắn từ bộ truyền động sẽ xé toạc Chiến giáp của tôi từ bên trong. Nỗi sợ hãi trước khả năng của Rita lại một lần nữa khiến tôi run rẩy –– và cô ấy đã học được cách đọc được mọi chiêu thức và hư chiêu của tôi.

Mỗi bước di chuyển trong trận chiến đều diễn ra trong tình trạng bán vô thức. Điều này khiến việc đọc được chúng trở nên khó khăn gấp đôi. Rita chỉ cách tôi nửa bước, đã xoắn người lại, sẵn sàng đánh bay tôi lên không ngay tại chỗ mà tôi sắp sửa tới.

Nó đã trúng đích. Như bản năng, tôi bước vào tầm đánh của chiếc rìu, né được toàn bộ sức phá hoại trọng yếu của cú chém. Giáp vai trái của tôi văng ra. Ánh đèn đỏ chớp nháy trên màn hình.

Rita đá tới, và không thể nào né được. Tôi bay ngược ra phía sau. Những tia lửa điện lẹt xẹt chớp khi Chiến giáp rơi xuống sàn bê tông vỡ nát. Tôi xoay một vòng và văng vào quầy hàng. Một cơn mưa những chiếc đũa trút xuống đầu tôi.

Rita đã bắt đầu cử động. Không còn thời gian để nghỉ ngơi. Đầu, vẫn ổn. Cổ, vẫn ổn. Thân trên, vai phải, tay phải –– mọi thứ ngoại trừ giáp vai trái đều vẫn hoạt động được. Tôi vẫn có thể tiếp tục chiến đấu. Tôi thả chiếc rìu ra. Thọc tay vào trong quầy tính tiền, tôi nhảy qua nó. Rita chém xuống, xé nát quầy tính tiền và đá bay một đống gỗ và kim loại.

Tôi đang ở trong bếp. Trước tôi là một chiếc bồn rửa khổng lồ bằng thép không rỉ và một cái bếp gas công nghiệp. Chảo rán và nồi lớn đủ để luộc chín cả một con lợn đang được treo trên tường. Từng chồng dao dĩa nhựa cao tới trần nhà. Những chiếc khay xếp thành hàng hẹp chứa những bữa sáng còn đang dang dở, giờ nằm yên lạnh lẽo.

Tôi lùi lại, làm rơi mấy cái khay xuống sàn nhà, tạo thành một đống bầy nhầy của thức ăn và nhựa cứng. Rita vẫn đang tới. Tôi ném một cái nồi về phía cô ấy và tung một đòn trực diện. Âm thanh vang lên như tiếng cồng chiêng khi nó nảy ra khỏi chiếc mũ bảo hộ đỏ màu cherry. Rõ ràng từng đó là chưa đủ để cản cô ấy lại. Đáng ra tôi nên thay bằng cái bồn rửa bát. Với một cú vung rìu, Rita hủy diệt phân nửa quầy hàng và một cột nhà bằng bê tông gia cố thép.

Tôi lùi lại xa hơn nữa –– chạm vào tường. Tôi té xuống sàn khi một cú chém ngang tàn bạo bổ về phía tôi. Khuôn mặt của gã vận động viên thể hình, vẫn cười tươi ngờ nghệch ở chỗ bếp, hứng chiêu đó hộ tôi. Tôi lao tới phía chân Rita. Cô ấy nhảy ra. Tôi để quán tính đẩy tôi quay về đống đổ nát ở quầy tính tiền. Chiếc rìu của tôi vẫn ở ngay chỗ trước đó tôi đặt nó.

Cầm lên món vũ khí mà bạn đã bỏ lại chỉ có thể có một nghĩa: bạn đã sẵn sàng chiến đấu trở lại; không ai lượm món vũ khí họ không định dùng. Rõ ràng rằng tôi không thể mãi mãi chạy trốn. Nếu Rita thật sự muốn giết tôi –– và đến giờ tôi mới bắt đầu nghĩ rằng cô ấy sẽ làm thật –– vậy thì chẳng còn đường thoát nào khác. Né tránh từng đòn tấn công một đã khiến Chiến giáp của tôi kiệt quệ. Đây là lúc để xốc lại tinh thần.

Có một chuyện tôi không cho phép bản thân mình quên đi. Thứ tôi đã tự hứa với mình từ lâu trước khi tôi tìm ra cách thoát ra khỏi vòng lặp này. Ẩn dưới chiếc găng tay ở tay trái là con số 160. Từ khi con số trên đó chỉ mới 5, tôi đã quyết định mang hết những gì tôi có thể học theo tôi tới ngày tiếp theo. Tôi sẽ không bao giờ chia sẻ bí mật về những con số đó với bất kỳ ai. Rita không, Yonabaru không, Ferrell, người huấn luyện cho tôi vô vàn lần cũng không. Chỉ có tôi biết nó có nghĩa là gì.

Con số đó là người bạn thân nhất của tôi, và chỉ cần nó còn ở đó, tôi không còn lo sợ cái chết. Dù Rita có giết tôi cũng không sao. Tôi sẽ không bao giờ đi xa được tới thế này nếu không có cô ấy. Còn gì hợp lý hơn khi báo đáp vị cứu tinh của tôi bằng cái chết của chính tôi?

Nhưng nếu tôi từ bỏ tại đây, mọi thứ sẽ kết thúc. Dũng khí tôi gom góp được trên hòn đảo bị bom oanh tạc đó. Những giọt máu tôi hít vào phổi. Cánh tay tôi để lại trên mặt đất. Tất cả những vòng lặp chết tiệt. Chúng đều sẽ tan biến như khói súng phả ra từ nòng súng. 159 trận chiến chỉ tồn tại trong đầu tôi sẽ ra đi mãi mãi trong vô nghĩa.

Nếu tôi đã cố gắng hết sức và thất bại thì đành chịu vậy. Nhưng tôi rõ ràng không định chết mà không chiến đấu. Rita và tôi rõ ràng đều nghĩ giống nhau. Tôi hiểu cô ấy đang phải trải qua chuyện gì. Địa ngục, cô ấy và tôi là hai người duy nhất trên cái hành tinh chết tiệt này hiểu được. Tôi bò trên mọi mét vuông đất trên Đảo Kotoiushi hòng tìm cách sống sót, cũng giống như những gì Rita đã làm trên chiến trường nào đó ở Hoa Kỳ.

Nếu tôi sống sót, cô ấy sẽ chết, và tôi sẽ không bao giờ tìm lại được ai đó giống như cô ấy nữa. Nếu cô ấy sống, vậy tôi sẽ phải chết. Dù cố suy nghĩ bao nhiêu lần thì cũng không tồn tại lối thoát nào khác. Một trong hai người bọn tôi phải chết, và Rita không muốn nói chuyện để giải quyết. Cô ấy muốn để kĩ năng giữa hai người bọn tôi quyết định. Cô ấy chọn cách thảo luận bằng sắt thép, và tôi phải đưa cho cô ấy một câu trả lời.

Tôi cầm chiếc rìu lên.

Tôi chạy tới giữa căn tin và kiểm trang trọng lượng của nó. Tôi cảm thấy bản thân đang ở trong tình cảnh gần như y hệt hồi thi ăn mơ muối. Cuộc đời thật nực cười nhỉ? Chỉ mới ngày hôm qua thôi, vậy mà tôi có cảm giác như là từ kiếp trước. Rita cũng đã hạ gục tôi trong trận. Tôi nghĩ công bằng mà nói cô ấy có tài năng thiên phú trong thi thố.

Chiếc Chiến giáp đỏ au bước một bước về phía trước, chăm chăm nhìn tôi. Cô ấy đứng ngay mép tầm với của chiếc rìu, thứ hung khí sáng bóng nắm chặt trong tay.

Những âm thanh chiến đấu bên ngoài tràn vào trong căn tin câm lặng. Những vụ nổ như những tiếng trống xập xình đằng xa. Đạn nổ ầm vang trên bầu trời là những âm cao của sáo. Những khẩu súng trường tự động thì đánh những bản gõ phách ngắt quãng. Rita và tôi cùng nhau gõ vang những tiếng chuông làm từ Volfram cacbua.

Không một thính giả nào đứng tại căn tin ngập tràn phế tích này. Từng chồng bàn và ghế đổ lăn lóc là những khán giả duy nhất, yên lặng thưởng thức điệu nhảy chết chóc giữa hai Chiến giáp đỏ rực và màu cát. Chúng tôi di chuyển theo hình trôn ốc, khi Rita xoay, cô liền để lại một vệt dài trên sàn bê tông. Chúng tôi nhảy múa trong một buổi ballet chiến tranh, bao bọc bởi thứ được cho là đỉnh cao khoa học của nhân loại, hai thanh vũ khí hung tàn ngâm nga bài điếu ca ngàn tuổi.

Lưỡi rìu của tôi đã mẻ và cùn. Chiến giáp của tôi khảm đầy những vết xước, pin năng lượng chẳng còn lại bao nhiêu. Cơ bắp của tôi lúc này chỉ hoạt động dựa vào ý chí.

Một vụ nổ kinh hoàng làm rung chuyển cả căn tin. Chúng tôi nhảy lên trước tiếng nổ.

Tôi biết đòn tiếp theo của cô ấy sẽ là một đòn chí mạng. Không thể nào tránh được nó. Không còn thời gian suy nghĩ nữa –– suy nghĩ là để dành khi huấn luyện. Chiến trường chỉ có hành động. Kinh nghiệm thấm đẫm từng centimet trên cơ thể tôi qua 159 trận chiến hướng dẫn từng động tác của tôi.

Rita đưa chiếc rìu ra sau, chuẩn bị vung tới. Rìu của tôi đáp trả từ bên dưới. Hai lưỡi rìu khổng lồ đan vào nhau, xé tan từng mảnh giáp.

Chỉ có một sự khác biệt duy nhất giữa tôi và Rita. Rita học chiến đấu với Mimic một mình. Tôi học chiến đấu với Mimic bằng cách quan sát Rita. Thời điểm chính xác mà cô ấy vung rìu, bước tiếp theo của cô ấy –– hệ điều hành trong tôi đều đã thu hết chúng lại. Tôi biết rõ hành động tiếp theo của cô ấy. Đó là lý do cú chém của Rita chỉ sượt qua tôi, còn cú chém của tôi thì xé toạc chiến giáp của cô ấy.

Một cái lỗ mở ra trên bộ giáp màu đỏ ối.

“Rita!”

Chiếc rìu chiến run rẩy trong tay cô ấy. Chiến giáp của Rita đã hoạt động một cách tối ưu trong việc loại bỏ hết những mệnh lệnh không chủ đích do cơn rối loạn trong cơ bắp của cô ấy. Cán rìu volfram cacbua cọ xát lẹt xẹt với găng tay bằng sắt. Máu, dầu nhớt và vài loại chất lỏng chưa xác định rỉ ra từ vết nứt toang hoác trên giáp của cô ấy. Khung cảnh đó quen thuộc đến kỳ quái với tôi, và lại một cơn khủng hoảng nữa tràn về. Cô ấy vươn tay ra và mò mẫm trên giáp vai của tôi. Tín hiệu liên lạc truyền tới. Giọng của Rita vang vọng trong mũ bảo hộ của tôi.

“Anh thắng rồi, Keiji Kiriya.” Chiến giáp đỏ au tựa sát vào tôi. Giọng của Rita khô khốc và tràn ngập đau đớn.

“Rita –– tại sao?”

“Tôi đã biết chuyện này từ lâu rồi. Kể từ khi tôi nhận được tín hiệu của Mimic lần đầu tiên. Trận chiến luôn kết thúc.”

“Cái gì? Tôi không ––“

“Anh là người khiến vòng lặp này kết thúc.” Rita ho sù sụ, âm thanh cao tần vang vọng trong đường dẫn.

Cuối cùng tôi cũng hiểu ra. Khi tôi gặp Rita vào ngày hôm qua, cô ấy đã quyết định bản thân sẽ là người phải chết. Tôi không hề nhận ra chuyện này vào lúc đó. Tôi nghĩ tôi chỉ vô tình chọn sai phương hướng. Tôi đáng ra phải cố tìm cách để cứu cô ấy, vậy mà tôi lại để ngày hôm đó trượt qua kẽ tay.

“Tôi xin lỗi, Rita. Tôi –– tôi không biết.”

“Đừng xin lỗi. Anh thắng rồi.”

“Thắng ư? Chúng ta có thể... cứ lặp lại chuyện này không? Chúng ta có thể sẽ không bao giờ thoát ra khỏi vòng lặp, nhưng chúng ta sẽ ở bên nhau. Mãi mãi. Chúng ta có thể ở bên nhau còn dài hơn cả một đời người. Mỗi ngày đều sẽ là một trận chiến, nhưng chúng ta có thể xử lý trận chiến đó. Nếu tôi phải giết một ngàn con Mimic, một triệu, tôi vẫn sẽ làm. Chúng ta sẽ làm chuyện đó cùng nhau.”

“Mỗi buổi sáng anh sẽ thức dậy cùng với một Rita Vrataski không biết rằng anh có tồn tại.”

“Tôi không quan tâm.”

Rita lắc đầu. “Anh không có quyền lựa chọn. Anh phải phá vỡ vòng lặp trước khi chuyện xảy ra với tôi xảy ra với anh. Kết thúc mớ quỷ sứ này khi anh còn có thể.”

“Tôi không thể hy sinh cô vì điều đó.”

“Keiji Kiriya mà tôi biết sẽ không hy sinh cả nhân loại chỉ vì bản thân mình.”

“Rita ––“

“Không còn nhiều thời gian nữa. Nếu như anh có gì muốn nói, cứ nói đi.” Chiếc chiến giáp đỏ rực chùng xuống.

“Anh sẽ ở bên em tới khi em chết. Anh –– anh yêu em.”

“Tốt lắm. Em cũng không muốn chết một mình đâu.”

Khuôn mặt cô ấy nấp sau chiếc mũ bảo hiểm, và tôi mừng vì điều đó. Chẳng may nếu tôi nhìn thấy những giọt nước mắt của cô ấy, tôi sẽ không bao giờ kết thúc được vòng lặp và để mặc cô ấy mãi mãi. Ánh tà dương, đỏ và âm ỉ nơi phương trường phía Tây, phủ lên Chiến giáp màu đỏ rực ấy, bao bọc nó trong vầng hào quang rực rỡ màu hồng ngọc.

“Trận chiến dài thật, Keiji. Đã là hoàng hôn rồi.”

“Đẹp thật đấy.”

“Tên khốn ủy mị.” Trong giọng cô ấy pha lẫn tiếng cười. “Em ghét bầu trời màu đỏ.”

Đó là những lời cuối cùng của cô ấy.

6

Bầu trời lại sáng.

Rita Vrataski đã chết. Sau khi tôi giết con Mimic server và dọn sạch đám lâu la, họ ném tôi vào trại giam. Họ nói đó là do sao nhãng nhiệm vụ. Do mặc kệ mệnh lệnh từ bộ chỉ huy, tôi đã đặt đồng đội mình vào tình thế nguy hiểm. Không hề đề cập tới chuyện bộ chỉ huy chả đưa ra cái mệnh lệnh chó gì. Họ đang cuống cuồng tìm người để gán trách nhiệm về cái chết của Rita, và tôi không thể trách họ vì muốn tìm một con cừu thí mạng.

Tòa án quân sự kéo dài ba ngày sau khi họ nhốt tôi lại; tôi được thả trắng án. Cuối cùng, thay vì gán trách nhiệm, họ quyết định gán cho tôi một cái huy chương.

Một vị đại tướng, người điều động đợt tập thể hình, vỗ vỗ sau lưng tôi và khen ngợi về những gì tôi đã làm. Mắt ông ta cứ đảo liên hồi khi nói tới chuyện đó. Tôi muốn hét vào mặt ông ta rằng ông cứ nhét thẳng cái huy chương này vào mông nếu như ông thấy ngứa đít, nhưng rút cục tôi cũng kìm lại được. Cái chết của Rita là trách nhiệm của tôi. Chẳng có nghĩa lý gì khi đổ lên đầu ông ấy.

Chiếc huy chương là cái Mệnh lệnh của Valkyrie, được trao cho những người lính giết nhiều hơn một trăm con Mimic trong một trận chiến. Thứ vinh dự vốn dĩ được tạo ra cho một người lính đặc biệt nào đó. Cách duy nhất để nhận được một vinh dự cao cả hơn là chết trong một trận chiến –– như Rita đã làm.

Tôi thật sự đã giết một đống tên khốn kiếp. Nhiều hơn tất cả số con mà Rita đã giết cộng lại chỉ trong một trận chiến. Tôi không nhớ rõ chuyện gì đã xảy ra sau khi tôi hủy diệt con server, nhưng hình như tôi đã tìm thấy pin năng lượng thay thế cho bộ giáp của tôi và tự mình thủ tiêu phân nửa số Mimic tấn công Chiến tuyến Flower.

Công cuộc tái kiến thiết của căn cứ đang được thúc đẩy tới tần suất cao. Một nửa số tòa nhà trong căn cứ đã bị thiêu rụi, và ngổn ngang dưới đất là một đống đổ nát vĩ đại. Doanh trại của Đại đội #17 đã sụp đổ, và cuốn tiểu thuyết kỳ bí tôi chưa kịp đọc hết đã hóa thành tro bụi.

Tôi lang thang vô định khi người ta vội vã ngược xuôi qua căn cứ.

“Chiến đấu như một tên điên sao? Đó là việc một gã anh hùng ngực gắn huy chương làm à?”

Giọng nói rất thân quen. Tôi quay đầu lại vừa kịp lúc để nhìn thấy một cú đấm bay thẳm vào mặt tôi. Chân trái của tôi tự động thay đổi vị trí. Tôi không có thời gian suy nghĩ. Tất cả những gì tôi có thể làm là quyết định ở trong đầu xem có nên tung đòn phản công hay không. Nếu tôi gạt công tắc lên, phản xạ được trui rèn qua 160 vòng lặp sẽ khởi động, khiến cơ thể tôi tự động di chuyển như một con rô bốt trong nhà máy.

Tôi có thể chuyển dời trọng tâm sang chân trái, đỡ cú đấm bằng vai và túm lấy khuỷu tay của gã tấn công tôi khi tôi bước tới bằng chân phải và thúc khuỷu tay của tôi vào hông hắn. Thế là quá đủ để giải quyết cú đấm đầu tiên của hắn. Tôi mô phỏng tình huống trong đầu và nhận ra tôi sẽ đánh gãy xương sườn của kẻ tấn công tôi trước khi tôi kịp nhận ra hắn ta là ai. Tôi quyết định đưa mặt ra đỡ đòn. Tình huống tệ nhất là tôi phải đi qua đi lại với một con mắt đen ngòm mà thôi.

Không ngờ nó đau đến thế. Lực chấn động đánh tôi ngã ngửa, mông rớt xuống đất. Ít nhất không có gì bị gãy –– tất cả đều đúng như kế hoạch. Nếu quân đội thất bại thì sau này tôi đi làm nghề trở thành bao cát thịt cho người khác cũng được đấy.

“Tao không biết mày trở thành một thiên tài từ khi nào, nhưng mày rõ là một thằng khốn tự mãn.”

“Để anh ta yên đi.”

Yonabaru đứng trước mặt tôi. Hắn ta trông cứ như muốn đấm thêm vài cú nữa, nhưng một người phụ nữ mặc áo sơ mi của lính đã bước ra ngăn hắn ta lại. Cánh tay trái của cô ấy đã được bó bột. Cô ấy chắc là bạn gái của Yonabaru. Thật mừng khi cả hai còn sống.

Có một tia sáng lóe lên trong mắt cô gái đó khác hoàn toàn so với những gì tôi từng thấy, cứ như cô ấy đang nhìn một con sư tử vừa mới sổ lồng. Đó là ánh mắt khi nhìn một thứ không phải con người.

“Nhàn nhã đi bộ cứ như chưa có chuyện gì xảy ra –– nhìn cái mặt mày khiến anh phát ói.”

“Em bảo rồi, để anh ta yên đi.”

“Fuck hắn.”

Trước khi tôi có thể đứng dậy, Yonabaru đã đi ra. Tôi từ từ đứng dậy và phủi bụi. Hàm của tôi bị thương không nặng lắm. Chẳng là gì khi so sánh với sự trống rỗng Rita để lại sâu bên trong tôi.

“Hắn ta đấm hơi bị đẹp đấy,” giọng nói từ đằng sau. Đó là Ferrell. Anh ấy trông y như mọi khi, chỉ khác là hình như có thêm một hai nếp nhăn trên trán.

“Anh thấy rồi à?”

“Xin lỗi, anh không kịp ngăn hắn lại.”

“Không sao đâu.”

“Đừng có trách hắn. Hắn đã mất rất nhiều bạn bè trong ngày hôm đó. Hắn chỉ cần chút thời gian để bình tĩnh lại.”

“Em có thấy Nijou –– phần còn lại của cậu ấy.”

“Đội của chúng ta mất mười bảy người. Người ta bảo có ba ngàn thương vong, nhưng chưa có số liệu thống kê chính thức. Chú mày có nhớ cô nàng trẻ trung xinh xắn điều hành Căn tin #2 không? Cô ta cũng không qua khỏi.”

“Ồ.”

“Không phải lỗi của chú mày, nhưng chuyện đó cũng chả quan trọng trong thời điểm như lúc này. Chú mày thấy đấy, chú mày cho cô nàng của Yonabaru một cú đá không nhẹ đâu. Đấy là so với những người khác.”

“Những người khác?”

“Những người khác.”

Thêm Ferrell vào danh sách những người tôi đi qua trong trận chiến. Ai mà biết tôi còn làm gì khác nữa. Tôi cũng không nhớ rõ lắm, nhưng rõ ràng là tôi đã biến thành một tên điên khát máu trên chiến trường. Có lẽ tôi là người đã khiến bạn gái của Yonabaru phải bó bột cánh tay. Thế nên hắn ta mới cáu bẳn như vậy. Một cú đá từ chiến giáp có lẽ là hơi quá. Chết tiệt, bạn có thể chảy máu nội tạng ấy chứ.

Tôi hy vọng Yonabaru sẽ nhớ tới nỗi sợ đó. Nó sẽ khiến hắn ta sống sót trong trận chiến tiếp theo. Hắn ta có thể sẽ không còn coi tôi là bạn nữa, nhưng với tôi hắn ta vẫn là một người bạn.

“Em xin lỗi.”

“Quên nó đi.” Ferrell rõ ràng không hề giận dữ. Nếu mà có gì khác, thì đó phải là vui mừng. “Ai dạy chú mày lái chiến giáp như vậy?”

“Anh đấy, Trung sĩ.”

“Anh nghiêm túc đấy, thằng nhãi. Nói về huấn luyện dàn trận là một chuyện, nhưng cả cái quân đội Nhật Bản này chả có ai có thể dạy chú mày chiến đấu như vậy.”

Trung sĩ Bartolome Ferrell đã trải qua nhiều trận chiến hơn bất cứ ai trong UDF. Anh ấy biết một chiến binh nghĩa là gì. Anh ấy hiểu rằng nếu tôi không đá anh ấy ra, anh ấy đã chết. Anh ấy biết rằng tay lính mới đứng trước mặt anh ấy là một chiến binh tuyệt vời hơn bất kỳ ai anh ấy có thể hy vọng để trở thành. Và anh ấy biết trong trận chiến, quân hàm duy nhất có giá trị là năng lực của bản thân.

Trung sĩ Ferrell là người chịu trách nhiệm xây dựng nền tảng những kĩ năng của tôi. Nhưng tôi không thể giải thích cho anh ấy, nên tôi không thử.

“Oh, tí thì quên mất. Có cô bé loắt choắt như chuột từ quân Hoa Kỳ muốn gặp chú mày.”

Shasta Raylle. Một Shasta Raylle tôi chỉ mới gặp lần đầu tại Nhà nghỉ trên không. Chúng tôi hiếm khi nói chuyện với nhau. Cái cô Shasta cho tôi mượn rìu chiến giờ chỉ còn là một mảnh ký ức hư ảo trong vòng lặp.

“Doanh trại tạm thời của đội #17 ở đâu? Và còn nhà chứa thì sao? Em muốn kiểm tra Chiến giáp của mình.”

“Vừa mới ra khỏi trại giam và chú mày liền muốn kiểm tra Chiến giáp? Quả nhiên là không tầm thường chút nào.”

“Chẳng có gì đặc biệt đâu.”

“Quân Hoa Kỳ đã lấy chiến giáp của chú mày đi. Nói mới nhớ, con chuột bé con ấy là người tới lấy nó.”

“Họ muốn làm gì với Chiến giáp của em?”

“Thượng cấp có kế hoạch của họ. Đừng ngạc nhiên nếu chú mày bị đưa tới Lực lượng Đặc nhiệm Hoa Kỳ.”

“Thật chứ?”

“Họ cần người để thay thế vị trí của Valkyrie. Anh chắc chắn chú mày sẽ làm quen nhanh thôi.” Ferrell vỗ vào vai tôi và chúng tôi tách ra.

Tôi chạy tới doanh trại của bên quân Mỹ để tìm Shasta và Chiến giáp của tôi. Những doanh trại và con đường đều đã bị thiêu rụi nặng nề đến mức khó mà biết được từ bên nào là bên quân Nhật và từ chỗ nào là bên quân Mỹ. Kể cả những chòi gác và những gã cơ bắp đều không còn.

Tôi tìm thấy Chiến giáp của mình trong công xưởng của Shasta. Shasta cũng đang ở đó. Ai đó đã khắc dòng chữ “Killer Cage” (lồng giam sát nhân) vào giáp ngực. “Cage” –– đó là cách người Mỹ phát âm tên tôi. Tôi đoán giờ tôi cũng đã có một bí danh trong đường dây liên lạc của riêng mình. Họ không lãng phí quá nhiều thời gian. Đó là một cái tên hay dành cho một con lợn dành được tấm huy chương bằng cách giết những người bạn của hắn. Tôi phải cảm ơn tên nào nghĩ ra cái này. Mẹ kiếp cái thế giới này.

Shasta nhìn tôi khi tôi xem vết khắc. “Tôi đã cố gắng để ý quan sát, nhưng họ vẫn làm trò được. Xin lỗi.” Tôi có cảm giác cô ấy đang nói y hệt những lời Rita đã nói trước đây.

“Đừng lo. Họ bảo rằng cô đang tìm tôi à?”

“Tôi muốn đưa anh chìa khóa tới Nhà nghỉ Trên không.”

“Chìa khóa?”

“Đúng như Rita đã yêu cầu. Không ai được vào bên trong sau khi anh đi. Cũng không đơn giản khi cố ngăn người ta không vào đó trong ba ngày đâu, nhưng tôi có nhiều tài vặt mà.” Shasta đưa tôi chiếc chìa khóa. “Cứ mặc kệ mấy thứ ở cửa vào nhé.”

“Cảm ơn.”

“Giúp được anh là tốt rồi.”

“Tôi có thể nhờ cô một chuyện không?”

“Chuyện gì?”

“Cô có biết tại sao Rita lại sơn Chiến giáp thành màu đỏ không? Đó đâu phải là màu ưa thích của cô ấy. Tôi nghĩ có lẽ cô biết.”

“Cô ấy nói cô ấy muốn trở nên nổi bật. Tôi không chắc lắm khi có người lại muốn nổi bật khi ở trên chiến trường. Chỉ tổ biến mình thành mục tiêu thôi.”

“Cảm ơn. Nghe cũng hợp lý đấy.”

“Tôi đoán anh cũng muốn sơn cái của anh?” Tôi hẳn đã cau mày vì cô ấy đột nhiên nói thêm, “Xin lỗi! Tôi chỉ đùa thôi.”

“Không sao. Tôi có lẽ cần phải để ý hơn. Dù sao cũng cảm ơn vì chiếc chìa khóa. Tôi sẽ tới kiểm tra căn nhà nghỉ ngay đây.”

“Trước khi anh đi ––“

“Hử?”

“Không phải chuyện của tôi, nhưng tôi tự hỏi....”

“Chuyện gì?” Tôi hỏi.

“Anh là một người bạn cũ của Rita à?”

Tôi mím môi, vẽ nên một điệu cười méo mó.

“Xin lỗi, đáng ra tôi không nên hỏi.”

“Không, không sao. Thực ra, chúng tôi ––“

“Hử?”

“Chúng tôi chỉ vừa gặp gỡ.”

“Tất nhiên. Chúng tôi chỉ vừa mới tới căn cứ này mà. Thật là ngớ ngẩn khi hỏi vậy.”

Tôi để mặc Shasta ở đó và đi tới Nhà nghỉ Trên không. Tôi từ tốn mở cửa phòng, mặc dù tôi biết nó sẽ không làm phiền ai.

Một dải băng màu vàng in dòng chữ “BIOHAZARD” in bên trên căng chéo lối vào. Có một cái bình cứu hỏa gần chân tôi, và cặn của nó bao phủ khắp sàn nhà. Tôi đoán đây là mẹo vặt của Shasta. Căn cứ vẫn đang ngập tràn cát độc từ Mimic, và những nơi không có người sống và đang được khử trùng như Nhà nghỉ Trên không sẽ không nằm trong danh sách ưu tiên. Thông minh đấy.

Tôi bước vào bên trong. Không khí ngập mùi ẩm mốc. Mùi của Rita đã tan biến khỏi căn phòng. Không hề có thứ gì bị di chuyển khỏi nơi vốn có. Cái túi nylon đổ sụp, máy nghiền cà phê, và một chiếc bếp ga mini chỉ tổ nhấn mạnh chuyện cô ấy mới tới đây chẳng được bao lâu. Chúng là những dấu vết duy nhất chứng tỏ cô ấy đã từng ở đó. Gần như mọi thứ khác cô ấy sở hữu đều liên quan tới quân đội. Bộ pha cà phê là hành trang cá nhân duy nhất của cô ấy. Tất nhiên cô ấy không để lại cho tôi lời nhắn nào –– Full Metal Bitch làm gì có chuyện ủy mị như thế.

Cái cốc trên chiếc bàn thủy tinh vẫn giữ cốc Cà phê Rita đã pha. Tôi cầm cái cốc lên. Cà phê đen kịt và nguội ngắt. Nó đã nguội đi nhiều ngày trước rồi. Tôi lắc lắc tay, khiến mặt nước gợn sóng li ti. Đây là cách Rita đối mặt với sự cô đơn của chính mình. Giờ tôi đã hiểu

* * *

Em chỉ là một mảnh ghép hình trong bức tranh, và tôi là mảnh thay thế cho em. Thế giới không cần tới một người anh hùng lầm lỗi. Và giờ cái thế giới chết tiệt này lại sắp sửa đẩy anh tới chiến trường ngập máu và khói lửa. Nhưng em chưa hề ghét bỏ cái thế giới vì những gì nó đã làm với em.

Vậy nên anh sẽ không để thế giới này thua cuộc. Nó có thể khiến anh rơi vào vòng trầm luân giữa cả đàn Mimic, chẳng có gì khác ngoài chiếc Rìu Volfram Cacbua và một chiếc Chiến giáp chết mòn nhưng anh vẫn sẽ vượt qua. Anh sẽ bơi trong vũng máu ngập cả thắt lưng trong những cuộc tàn sát còn nhiều hơn tất cả những gì lính trong UDF từng thấy cộng lại, và anh vẫn sẽ không bị tổn thương. Anh sẽ huấn luyện cho tới khi anh biết rõ nano giây nào là lúc nên kéo cò, biết chính xác thời điểm để di chuyển từng bước. Anh sẽ không để mũi giáo nào gây tổn thương nghiêm trọng hơn những vết xước trên chiến giáp của anh.

Khi anh còn sống và còn thở, nhân loại sẽ không thất bại. Anh hứa với em đấy. Có thể phải mất cả thập kỉ, nhưng anh sẽ thắng trận chiến này vì em. Kể cả khi em không còn ở đây để thấy nó. Em là người duy nhất anh muốn bảo vệ, và em đã ra đi.

Những giọt nước mắt nóng hổi cứ chực trào ra khỏi mắt tôi khi tôi nhìn ô cửa kính nứt toác ra trên bầu trời, nhưng tôi sẽ không khóc. Không phải vì những người bạn tôi sẽ mất trong những trận chiến sắp tới. Là vì những người bạn tôi sẽ không thể bảo vệ được. Tôi sẽ không khóc cho tới khi trận chiến này kết thúc.

Qua ô cửa sổ tôi nhìn thấy bầu trời, xanh thẳm màu pha lê, trông như kéo dài tới vô tận. Một đám mây lờ lững trôi. Tôi cúi mặt nhìn thẳng về cửa sổ, và như một miếng bọt biển khô rang bị nhúng vào trong nước, cơ thể tôi như thu lấy bầu trời trong xanh mênh mông vào lòng.

Em ghét ở một mình, nhưng em lại tách biệt bản thân khỏi doanh trại, đi ngủ và thức giấc trong cô đơn, bởi em biết thật khó khăn khi đối mặt với những người bạn em biết rằng sẽ chết. Kẹt trong cơn ác mộng tàn nhẫn và không có hồi kết, suy nghĩ duy nhất trong em đều hướng về phía họ. Em không thể chịu nổi khi mất đi dù chỉ một người trong họ, dù họ là ai.

Màu đỏ là màu của em, là của em và chỉ của mình em. Nó nên yên nghỉ cùng với em. Anh sẽ sơn chiến giáp của mình bằng màu xanh của bầu trời, cái màu em bảo với anh là màu em yêu khi lần đầu đôi ta gặp gỡ. Tại nơi với cả triệu binh lính, anh sẽ nổi bật hơn hết thảy, một cái cột thu lôi hút lấy đòn tấn công của quân thù. Anh sẽ là mục tiêu của chúng.

* * *

Tôi ngồi đó một lúc, cầm lấy cốc cà phê cuối cùng cô ấy làm, pha cho người mà cô ấy cũng chẳng quen lắm. Cái mùi thoang thoảng của nó khuấy đảo trong tôi chút tâm tình bi thương và nhung nhớ khó có thể nguôi ngoai. Một chút mốc meo trắng xanh lượn lờ trên mặt cốc cà phê. Đưa chiếc cốc lên môi, tôi uống.

Bình luận (0)Facebook